Nano Fucoidan là gì?
Fucoidan là chất được chiết xuất từ tảo nâu Mozuku được nuôi trồng ở vùng biển sạch Okinawa Nhật Bản.
- Từ những năm đầu của thế kỷ XX, các nhà khoa học đã nghiên cứu lâm sàng và chứng minh được rằng Fucoidan có hiệu quả tích cực hỗ trợ chữa trị ung thư.
- Sau đó, hàng loạt nghiên cứu của các nhà khoa học khắp thế giới cũng khẳng định Fucoidan có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, kích thích tế bào ung thư tự hủy.
- Bên cạnh đó, Fucoidan còn giúp tăng khả năng miễn dịch, hỗ trợ bệnh nhân trong những đợt trị xạ, giúp kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân.
Fucoidan là thành phần thiên nhiên nên rất an toàn cho cơ thể, hiệu quả cao, đã được rất nhiều công ty dược của Nhật và trên Thế giới sử dụng điều chế thuốc, thực phẩm chức năng hỗ trợ điều trị ung thư.
Mặc dù Fucoidan rất tốt để hỗ trợ điều trị ung thư, tuy nhiên đối với bệnh nhân mắc căn bệnh quái ác này thì khả năng hấp thu chất dưỡng chất từ bên ngoài là rất kém. Đó chính là lý do mà Nhật Bản ứng dụng công nghệ hiện đại nhất để điều chế Fucoidan ở dạng bột nano, có trọng lượng phân tử thấp, dễ dàng hòa tan và hấp thu khi vào cơ thể.
Nano Fucoidan dạng bột có hiệu quả gấp nhiều lần so với các loại fucoidan thông thường, chính vì vậy ngày càng được ưa chuộng trên khắp Thế giới.
Nano Fucoidan Extract Granule có tốt không?
Muốn thuyết phục được khách hàng tin dùng một sản phẩm, trước hết sản phẩm đó phải thể hiện được ưu điểm vượt trội của mình so với những sản phẩm tương tự. Vậy viên uống Nano Fucoidan Extract Granule có gì vượt trội, nó mang lại lợi ích gì cho người tiêu dùng? Câu trả lời ở ngay dưới đây.
Nano Fucoidan Extract Granule sản phẩm của thương hiệu nổi tiếng hàng đầu Nhật Bản về Fucoidan
Kanehide Bio là thương hiệu nổi tiếng hàng đầu Nhật Bản. Được biết, đây chính là đơn vị đầu tiên nghiên cứu và chiết xuất thành công Fucoidan từ tảo nâu Mozuku Okinawa và xuất khẩu ra các quốc gia khác trên thế giới.
Thương hiệu này hiện đang sở hữu nhà máy sản xuất của đạt chứng nhận JAS, ISO 22000, ISO 9001 HACCP và GMP tại Nhật Bản, đồng thời có quy trình sản xuất quản lý chặt chẽ và an toàn mang lại sản phẩm chất lượng cao cho người tiêu dùng.
Đặc biệt, Kanehide Bio là đơn vị tiên phong ứng dụng thành công nghệ tạo hạt Nano vào việc sản xuất Fucoidan, đây là bước đột phá mới giúp hấp thu Fucoidan hiệu quả và nhanh chóng cho bệnh nhân ung thư ngày nay.
Cơ chế tác dụng của sản phẩm
Nano Fucoidan Extract Granule phát huy tác dụng của mình theo cơ chế sau:
Hỗ trợ ức chế tăng trưởng và tiêu diệt tế bào ung thư
Sản phẩm kích thích tế bào ung thư tự tiêu diệt theo chu trình chết tự nhiên của tế bào. Các tế bào ung thư sẽ bị cô lập, co lại và phân hủy mà không làm ảnh hưởng đến các tế bào bình thường xung quanh. Điều này giúp hạn chế tác dụng phụ so với biện pháp hóa trị liệu hiện nay.
Tác dụng hỗ trợ chống ung thư tái phát
Các tế bào ung thư có khả năng xâm lấn các tế bào lân cận, chúng làm hủy hoại các tế bào lân cận và hình thành nên mạch mách mới riêng lẻ để nuôi khối u. Fucoidan ngăn chặn quá trình hình thành mạch máu mới này, đồng nghĩa với việc làm mất nguồn dinh dưỡng nuôi khối u. Từ đó các tế bào ung thư sẽ bị tiêu và không thể di căn tới các vị trí khác.
Giúp nâng cao khả năng miễn dịch
Các tế bào ung thư xâm lấn và hủy hoại các tế bào bạch cầu khiến hệ miễn dịch chúng ta suy yếu, cơ thể mất đề kháng, dễ nhiễm virus, không có khả năng kháng lại ung thư. Fucoidan có chứa rất nhiều khoáng chất, protein, carbohydrate…giúp cho cơ thể chúng ta được tăng cường hệ miễn dịch, nâng cao sức đề kháng, phục hồi chức năng bạch cầu, hỗ trợ quá trình đại thực bào, giúp ngăn ngừa và đẩy lùi ung thư hiệu quả.
Ưu điểm vượt bật của sản phẩm
- Sản phẩm được bào chế đặc biệt dưới dạng phân tử Nano siêu vi dễ hấp thụ.
- Một phần uống (2 grams) chứa 0,6 grams Nano Fucoidan, tương đương với 3 grams của Fucoidan thông thường về mặt hiệu quả. Nhờ đó, lượng Fucoidan cơ thể hấp thụ được sẽ gấp 3 – 5 lần so với các loại Fucoidan khác.
- Được chiết xuất 100% từ tảo nâu Mozuku ở Nhật Bản, có tác dụng vượt trội trong việc phòng ngừa và hỗ trợ điều trị ung thư hiệu quả.
- Đồng thời, Nano Fucoidan Extract Granule có khả năng phát hiện và tác dụng lên các tế bào ung thư khiến chúng tự chết hoặc thu nhỏ lại mang lại hiệu quả nhanh trong điều trị.
- Ngoài ra, còn giúp tăng cường hệ miễn dịch và hỗ trợ điều trị các bệnh lý tim mạch như xơ vữa động mạch, mỡ máu cao, tăng huyết áp, bệnh tiểu đường, giúp tăng cường chức năng miễn dịch cho cơ thể… giúp cơ thể luôn khỏe mạnh.
Review của khách hàng
Đây là yếu tố quyết định hàng đầu đối với sự tin tưởng của khách hàng về sản phẩm. Bởi sản phẩm đã có người sử dụng qua mà còn gửi lại những phản hồi tích cực thì chắc chắn một điều là sản phẩm này đã mang lại hiệu quả rất tốt cho người sử dụng. Nano Fucoidan Extract Granule cũng đã chứng minh được chất lượng của mình thông qua việc nhận được hàng loạt các review của khách hàng.
Review của khách hàng Việt Nam
Bác Nguyễn Văn Nhật 57 tuổi: “Bác bị phát hiện ung thư ở giai đoạn đầu, may mà kịp thời đi khám sức khỏe định kỳ, bác đã điều trị trong bệnh viện, tiến hành xạ trị, kết hợp với sử dụng tảo nâu fucoidan. Sau 6 tháng điều trị tại bệnh viện và sử dụng viên uống tảo nâu fucoidan, sức khỏe của bác đã được phục hồi, nó như là phép lạ. Fucoidan còn giúp ăn ngủ tốt. Hiện giờ đã khỏi bệnh nhưng bác vẫn tiếp tục sử dụng sản phẩm này.”
Minh Châu: “Em đã mua loại fucoidan này cho việc điều trị bệnh ung thư của ông, sản phẩm giúp ông em ăn ngủ tốt hơn, và hỗ trợ điều trị ung thư hiệu quả, ông em đã đi lại bình thường và có cái nhìn lạc quan về cuộc sống hơn. Mua hàng ở bietduoc.net rất nhanh. Cảm ơn ạ.”
Nguyễn Hoài An: “Sử dụng Fucoidan em thấy rất hiệu quả, em mua cho bác em sử dụng, bác đang trong quá trình xạ trị trong bệnh viện, sau 3 tháng sử dụng xạ trị kết hợp với sử dụng tảo fucoidan, các tế bào ung thư của bác em đã được loại bỏ, giờ đây sức khỏe của bác em đang dần hồi phục. Bác sử dụng fucoidan mỗi ngày. Cảm ơn bietduoc.net cho em mua sản phẩm này.”
Nguyễn Thị Tươi – Văn Lâm, Hưng Yên: “Bố mình tự nhiên sụt cân trầm trọng trong vòng 2 tháng, cũng đã nghi ngờ rằng bố có điều chẳng lành. Khi phát hiện bố bệnh cả nhà rất buồn vì đã chuyển sang giai đoạn cuối, mình có tìm hiểu nhiều phương pháp nhưng mình biết chưa có thuốc chữa, mà chỉ có thể kéo dài sự sống của bố, sau khi sử dụng nano fucoidan mình thấy bố của mình ăn được hơn trước đây, hiện nay được tháng rồi, mình hy vọng là có phép màu xảy ra.”
Bùi Thu Trang, Hà Nội: “Mẹ mình được chuẩn đoán bị bệnh ung thư vú, phải điều trị nhiều đợt ở viện K. Mỗi lần điều trị thấy mẹ mệt mỏi, đau đớn mà không làm gì được. Rồi đợt trước chị ở cơ quan có giới thiệu đến mình thuốc Nano Fucoidan Nhật Bản này. Mình đọc thông tin thấy tốt nên mua về cho mẹ uống.
Từ đợt dùng loại này thấy mẹ mình có vẻ khỏe hơn, ăn uống ngon miệng, ít bị buồn nôn hơn. Sau mỗi lần hóa trị thấy mẹ đỡ tiều tụy hơn mình cũng an tâm phần nào.”
Review của khách hàng quốc tế
Bên cạnh các review của người tiêu dùng Việt chúng tôi còn tổng hợp thêm các phản hồi của khách hàng quốc tế trên diễn đàn Amazon để bạn có thể thấy rõ được chất lượng và mức độ uy tín của sản phẩm này.
Lap N – Sẽ mua nhiều hơn trong vài tháng tới: “Có hiệu quả, sản phẩm tốt.”
Nguyen – Fucoidan: “Tốt!”
Amazon – Hữu ích: “Người bạn nói rằng sản phẩm rất hữu ích! Tốt!!!”
Mua Nano Fucoidan Extract Granule ở đâu?
Thay vì chỉ biết được thông tin về địa điểm mua hàng thì biết thêm cách nhận diện hàng nhập khẩu chính hãng sẽ mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng hơn. Việc biết được thêm thông tin này sẽ giúp khách hàng dễ dàng nhận biết hàng nào nên và không nên mua, từ đó sẽ tránh được tình trạng mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng trôi nổi trên thị trường.
Thông thường hàng chính hãng sẽ có 3 loại tem, trong đó có 2 loại tem bắt buộc:
Loại 1: Tem nhập khẩu chính hãng của đơn vị nhập khẩu là tem niêm phong 7 màu, có in chữ “Tem phân phối chính hãng”.
Loại 2: Tem chống hàng giả của Bộ Công an. Loại tem này được bổ sung nhằm nâng cao khả năng nhận diện cho các sản phẩm chính hãng. Đặc điểm nhận dạng: tem cào điện tử, có thể chiếu tia UV kiểm tra, tem vỡ, Hallogram óng ánh.
Còn tem loại 3 là tem của các nhà thuốc, các đại lý bán lẻ sản phẩm trên toàn quốc (loại tem này có thể có hoặc không).
Bên cạnh đó, các sản phẩm chính hãng đều phải có nhãn phụ tiếng Việt. Trên nhãn phụ thể hiện đầy đủ thông tin của sản phẩm về thành phần, công dụng, đối tượng và hướng dẫn sử dụng sản phẩm.
Đặc biệt, trên nhãn phụ có ghi rõ số Xác nhận công bố (Số đăng ký sản phẩm – ĐKSP) được cấp bởi Cục An toàn vệ sinh Thực phẩm – Bộ Y tế Việt Nam. Trên các các phẩm không chính hãng, không rõ nguồn gốc không có dãy số này.
Theo những thông tin được cung cấp trên, nếu bạn tìm hiểu kỹ trước khi mua chúng tôi tin chắc rằng bạn sẽ lựa chọn được sản phẩm có chất lượng tốt nhất dành cho mình.
Và để mua Nano Fucoidan Extract Granule chính hãng với chất lượng cao chúng tôi khuyên bạn nên mua hàng ở những địa điểm nổi tiếng và uy tín mà bạn biết.
Nano Fucoidan Extract Granule giá bao nhiêu và cách dùng như thế nào?
Giá thành sản phẩm Viên uống Nano Fucoidan Extract Granule hiện được bán tại bietduoc.net có giá:
Nano Fucoidan Kanehide Bio Nhật Bản 60 gói
Tăng khả năng hấp thu gấp 10 lần so với fucoidan thông thường
Sản phẩm của hãng: Kanehide Bio Nhật Bản
Quy cách đóng gói: Hộp 60 gói dạng bột
Nano Fucoidan – Tăng khả năng hấp thu gấp 10 lần so với fucoidan thông thường
Nano Fucoidan là sản phẩm phòng và hỗ trợ điều trị ung thư hiệu quả, ứng dụng công nghệ Nano tạo ra các hạt phân tử NANO siêu vi giúp dễ dàng hấp thụ trực tiếp vào tế bào trong thời gian ngắn, Nano Fucoidan mang lại hiệu quả cao trong việc phòng và hỗ trợ điều trị ung thư cao nhất. Đặc biệt là đối với bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn.
Nano Fucoidan với thành phần chính 100% tinh chất Fucoidan chiết xuất từ rong nâu Mozuku Nhật Bản, có tác dụng vượt trội trong việc phòng ngừa và hỗ trợ điều trị mọi giai đoạn ung thư.
Được sản xuất bởi Tập đoàn Kanehide Bio Nhật Bản, chuyên nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên tại đảo Okinawa Nhật Bản, Okinawa được biết đến là nơi có dân số sống thọ nhất thế giới, theo nhiều nghiên cứu, người dân trên đảo Okinawa có tuổi thọ cao là nhờ vào chế độ ăn uống, và nguồn thực thẩm sạch và an toàn.
Kanehide Bio là tập đoàn đầu tiên áp dụng công nghệ sinh học cao tạo ra các sản phẩm dược phẩm và thực phẩm chức năng thay thế thuốc tại Nhật Bản. Nhà máy đạt chứng nhận JAS, ISO 22000, ISO 9001 HACCP và GMP tại Nhật Bản. Là đơn vị đầu tiên nghiên cứu và chiết suất thành công Fucoidan từ rong nâu Mozuku tại đảo Okinawa Nhật Bản.
Hơn thế nữa Kanehide Bio đã ứng dụng thành công công nghệ tạo hạt Nano vào việc sàn xuất Fucoidan, đây là bước đột phá mới giúp hấp thu Fucoidan hiệu quả và nhanh chóng cho bệnh nhân ung thư hiện nay.
Thành phần và hàm lượng trong sản phẩm Nano Fucoidan Kanehide Bio
#Thành phần:
- Thành phần chính 100% Fucoidan tinh chất chiết suất từ rong nâu Mozuku Nhật Bản
- Ngoài ra còn có: Dextrine, Soy lecithin, Trehalose, Canxi phốt phát.
#Hàm lượng:
- Sản xuất theo công nghệ Nano tạo ra các hạt phân tử siêu vi giúp hấp thu 100% hàm lượng Fucoidan trực tiếp vào tế bào.
- 1 gói chứa 0.6g nano Fucoidan tương đương với 3g okinawa fucoidan nguyên chất thông thường.
- Hàm lượng 1 hộp: 36g nano Fucoidan (0.6g x 60 gói) ~ 180g Fucoidan nguyên chất
#Giá trị dinh dưỡng trong 1 gói Nano Fucoidan (2g):
- Năng lượng: 10.8 kcal
- Protein: 0.1g
- Chất béo: 0.8g
- Carbohydrate: 1.0g
- Sodium: 15.0mg.
Công dụng sản phẩm Nano Fucoidan Kanehide Bio
- Phòng ngừa và hỗ trợ điều trị ung thư cho mọi giai đoạn ung thư và đặc biệt giai đoạn muộn.
- Giúp giảm tác dụng phụ của hóa trị, xạ trị.
- Phòng ngừa và hỗ trợ điều trị ung thư, tăng hiệu quả điều trị bệnh.
- Giúp ổn định tình trạng bệnh – kéo dài tuổi thọ cho người bệnh ung thư: nhờ khả năng kích hoạt lại chu trình tự chết của tế bào ung thư, Fucoidan được giới y học quan tâm với khả năng đẩy lùi bệnh ung thư.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh ung thư: kích thích các tế bào ung thư tự tiêu diệt sẽ giúp khối u giảm dần kích thước, giảm chèn ép dây thần kinh, giúp giảm đau.
- Tăng cường hệ miễn dịch, nâng cao sức đề kháng của cơ thể.
- Phòng ngừa và hỗ trợ điều trị xơ vữa động mạch, giảm mỡ máu, điều hòa huyết áp. Ức chế cơ chế gây béo phì.
Đối tượng sử dụng sản phẩm Nano Fucoidan Kanehide Bio
- Phù hợp với mọi đối tượng.
- Phù hợp với mọi loại ung thư và bất kỳ giai đoạn nào của bệnh.
- Trẻ em dưới 3 tuổi cần hỏi bác sĩ trước khi dùng.
Tham khảo thêm:
Cách sử dụng sản phẩm Nano Fucoidan Kanehide Bio
- Phòng bệnh: 1 gói /ngày
- Can thiệp: 2 – 3 gói/ngày, 1 gói/lần.
- Pha 1 gói với nước ấm. Uống trước ăn.
Bảo quản và hạn sử dụng sản phẩm
- Bảo quản nơi thoáng mát khô ráo
- Hạn sử dụng: 2 năm kể từ ngày sản xuất
Bietduoc.net
Địa chỉ: Số 5 Ngõ 4 Đặng Văn Ngữ – Đống Đa – Hà Nội
Hotline: 0978.53.2112 – 0975.96.1551
Báo chí viết về Nano Fucoidan
Thông cáo báo chí của Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam về Nano Fucoidan
Hà Nội, ngày 16/5/2016
Trên cơ sở thành công của việc ứng dụng đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Nghiên cứu Quy trình Công nghệ làm thuốc hỗ trợ điều trị ung thư từ rong nâu Việt Nam” trong việc chế tạo và sản xuất sản phẩm có chứa hoạt chất Fucoidan sulfate hóa cao, phân tử lượng thấp (GENK STF) đã được tin dùng và đánh giá cao về tính an toàn, hiệu quả tác dụng trong việc tăng cường sức khỏe, dự phòng và hỗ trợ điều trị ung thư trong thời gian qua; Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nha Trang thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Công ty Cổ phần Dược phẩm GoldHealth Việt Nam (GHV) đã hợp tác, tiếp tục phát triển và ứng dụng Công nghệ Nano vào nghiên cứu thành công Quy trình điều chế, tạo hệ dẫn thuốc Phức hệ NANO EXTRA XFGC, đưa ra thị trường sản phẩm bảo vệ sức khỏe có tên GHV KSol – đây là sản phẩm thứ 2 có thành phần hoạt chất chứa Fucoidan sulfate hóa cao, phân tử lượng thấp, dưới dạng Phức hệ NANO kết hợp thêm với 3 loại dược liệu khác là Curcumin trong củ nghệ vàng, Tam thất và Xáo tam phân. Đây đều là những thảo dược có chứa chất làm ức chế, ngăn cản sự phát triển của khối u. Tuy nhiên, riêng Curcumin trong nghệ vàng rất ít mang lại hiệu quả khi dùng trực tiếp do khó tan trong nước và hấp thu kém. Với phức hệ Nano EXTRA XFGC vừa được chế tạo thì độ tan của Curcumin đã có thể tăng lên hàng nghìn lần, giúp tăng hiệu quả tác động lên tế bào ung thư.
Điểm đặc biệt đáng lưu ý trong Phức hệ này là sử dụng Fucoidan sulfate hóa cao, phân tử lượng thấp, là nguyên liệu được hình thành từ đề tài Nghiên cứu thuộc Chương trình Hóa dược cấp Quốc gia “Nghiên cứu Quy trình công nghệ tạo nguyên liệu hỗ trợ điều trị ung thư từ rong nâu Việt Nam” – của Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Mã số: CNHD.TD.029/11-12). Fucoidan sulfate hóa cao, phân tử lượng thấp (STF) đã được chứng minh là có độ hấp thu và hoạt tính cao hơn gấp nhiều lần so với Fucoidan thông thường. Ngoài tác dụng trong dự phòng và hỗ trợ điều trị ung thư, Fucoidan còn có các tác dụng quý khác như điều hòa đường huyết, mỡ máu, huyết áp; tăng cường chức năng gan, chống viêm loét dạ dày tá tràng, đặc biệt là giúp giảm nguy cơ tai biến và đột quỵ do chống hình thành cục máu đông trong lòng mạch.
Bên cạnh đó, Xáo tam phân là một cây thuốc mọc chủ yếu ở các tỉnh phía Nam như Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, thời gian gần đây mới được đưa vào nghiên cứu. Đến tháng 6 năm 2013 công trình nghiên cứu về cây Xáo tam phân đã được Bộ Y tế công bố, tìm ra được một số hoạt chất, thành phần giúp hỗ trợ điều trị các bệnh xơ gan, viêm gan B, hỗ trợ điều trị bệnh ung thư gan, u đại tràng, ung thư vú, u nang buồng trứng và u xơ tử cung…
Tam thất là một trong 4 hoạt chất nằm trong Phức hệ NANO EXTRA XFGC. Rất nhiều công trình nghiên cứu đã được tiến hành nhằm khám phá tác dụng của Saponin trong dịch chiết Tam thất và các nhà khoa học đã tìm ra được nhiều hoạt tính sinh học quý của Saponin Noto Gingseng trên bệnh ung thư, giúp giảm tình trạng mệt mỏi do hóa trị, ức chế quá trình xâm lấn và di căn của khối u, kích hoạt quá trình tự sát của tế bào ung thư. Ngoài ra, Tam thất còn có những hoạt tính sinh học quý khác như tác dụng bổ dưỡng: tăng lực, tăng sức đề kháng, điều hòa miễn dịch; kích thích tâm thần, chống trầm uất; bảo vệ tim chống lại những tác nhân gây loạn nhịp, chất Noto Ginsenosid trong Tam thất có tác dụng giãn mạch, ngăn ngừa xơ vữa động mạch, tăng khả năng chịu đựng của cơ thể khi bị thiếu ôxy; cầm máu, tiêu máu, tiêu sung (chữa các trường hợp chảy máu do chấn thương – kể cả nội tạng, tiêu máu ứ do phẫu thuật, va dập gây bầm tím phần mềm).
Thành tựu mới này được đánh giá là một bước tiến mới, vượt bậc trong lĩnh vực dự phòng và hỗ trợ điều trị ung thư ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên các nhà khoa học Việt Nam đã chế tạo thành công phức hệ NANO EXTRA XFGC ưu việt, vừa giúp kế thừa được tác dụng vượt trội của hoạt chất Fucoidan sulfate hóa cao, phân tử lượng thấp và đồng thời là bước đột phá mới trong việc ứng dụng Khoa học công nghệ Nano để phát triển nguyên liệu chế tạo, sản xuất sản phẩm phòng và hỗ trợ điều trị ung thư (giúp chuyển hoạt chất tới được các khối u cần chữa trị một cách hướng đích), nâng cao thể trạng người bệnh và giảm độc tính hóa xạ trị. Đây chính là thành quả của quá trình hợp tác, đặt hàng và tài trợ ngân sách nghiên cứu giữa một doanh nghiệp và Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nha Trang thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Nhiều nhà khoa học đánh giá thành công này là đột phá mới tiếp theo trong việc hợp tác giữa các Viện Nghiên cứu và các doanh nghiệp. Kết quả hợp tác này đã bước đầu được nghiên cứu tác dụng kháng ung thư trên một số dòng tế bào ung thư cho thấy tác dụng hạn chế kích thước khối u và tăng cường tế bào bảo vệ cơ thể. Mỗi năm nước ta có khoảng hơn 200.000 trường hợp mắc ung thư mới và hơn 70.000 người chết vì ung thư. Mỗi một kết quả nghiên cứu mới trong dự phòng và hỗ trợ điều trị ung thư ứng dụng vào cuộc sống sẽ đem lại niềm hy vọng cho người bệnh cũng như cộng đồng trong việc dự phòng và hỗ trợ điều trị căn bệnh này.
(Tiền Phong) Nano Fucoidan: Sản phẩm vàng vì sức khỏe cộng đồng
Trong năm 2021 vừa qua, các sản phẩm Fucoidan Kanehide Bio Nhật Bản đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải thưởng Sản phẩm vàng vì sức khỏe cộng cộng do Hiệp hội Thực phẩm chức năng trao tặng.
Fucoidan Kanehide là tên thường gọi của dòng sản phẩm Fucoidan – hỗ trợ điều trị ung thư thuộc thương hiệu Kanehide Bio (Nhật Bản). Đây chính là tập đoàn đầu tiên áp dụng công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ lên men cùng nguồn nguyên liệu truyền thống địa phương (đảo Okinawa) để sản xuất thực phẩm chức năng.
Kanehide Bio là đơn vị chuyên sản xuất các sản phẩm Fucoidan từ rong nâu Mozuku tại vùng biển Okinawa Nhật Bản. Rong nâu ở đây được đánh giá là có chứa hàm lượng và chất lượng fucoidan hàng đầu Thế giới.
Đặc biệt, Kanehide Bio cũng là đơn vị tiên phong ứng dụng thành công công nghệ tạo hạt Nano vào việc sản xuất Fucoidan, đây là bước đột phá mới giúp hấp thu Fucoidan hiệu quả và nhanh chóng cho bệnh nhân ung thư
Các sản phẩm Fucoidan của Kanehide đang được hàng triệu người trên thế giới, tại Nhật Bản cũng như tại Việt Nam sử dụng để hỗ trợ phòng ngừa, làm giảm nguy cơ ung bướu, hỗ trợ điều trị ung thư, giảm tác dụng phụ của hóa trị, xạ trị đồng thời hỗ trợ tăng cường sức đề kháng cũng như hệ miễn dịch cho người bệnh.
Hiện nay, các sản phẩm Fucoidan của Kanehide được nhập khẩu chính hãng tại Việt Nam và được phân phối bởi Công ty TNHH PT Consumer (PTC).
Trong năm 2021 vừa qua, các sản phẩm Fucoidan Kanehide đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá tại Việt Nam. Trong đó, sản phẩm Nano Fucoidan đã được trao tặng Giải thưởng Sản phẩm vàng vì sức khỏe cộng đồng. Giải thưởng này do Hiệp hội Thực phẩm chức năng Việt Nam (VAFF) tổ chức. Việc xét giải được dựa trên 4 tiêu chí về an toàn, chất lượng và hiệu quả sản phẩm; tiêu chuẩn cao trong sản xuất kinh doanh và những đóng ý nghĩa cho xã hội cũng như cộng đồng.
Nano Fucoidan là Fucoidan dạng bột với thành phần chính là Fucoidan được chiết xuất từ loại tảo nâu Mozuku. Sản phẩm này được sản xuất bằng công nghệ nano hiện đại bậc nhất hiện nay. Các chất trong Nano Fucoidan được bào chế dưới dạng siêu vi dễ dàng hấp thụ với thời gian ngắn, hiệu quả cao.
Mỗi gói Nano Fucoidan (2 grams) chứa 0,6 gram Nano Fucoidan, tương đương với 3 gram của Fucoidan thông thường về mặt hiệu quả. Theo nhận định của đại diện nhà sản xuất – Kanehide, 1 gói Nano Fucoidan phát huy tác dụng bằng 18 viên Fucoidan thông thường và hiệu quả hấp thu cao gấp 3 lần. Đối với bệnh nhân ung thư ở giai đoạn nặng thì Nano Fucoidan chính là sự lựa chọn thông minh bởi sản phẩm dễ dàng hấp thu và mang lại hiệu quả nhanh chóng.
Giải thưởng “Sản phẩm vàng cho sức khỏe cộng đồng” được coi là sự ghi nhận xứng đáng cho sản phẩm Nano Fucoidan của Kanehide vì chất lượng, hiệu quả và sự đóng góp to lớn trong việc hỗ trợ sức khỏe bệnh nhân ung thư tại Việt Nam.
Bà Trương Minh Bích Phượng – Tổng giám đốc Công ty PTC chia sẻ: “Chúng tôi rất vinh dự và tự hào vì đã và đang đưa được các sản phẩm Fucoidan của Kanehide về Việt Nam. Và càng tự hào hơn nữa khi sản phẩm của chúng tôi đưa về được ghi nhận và trao giải thưởng Sản phẩm vàng vì sức khỏe cộng đồng. Đại diện cho đơn vị phân phối tôi xin cảm ơn quý cơ quan chức năng, đơn vị tổ chức đã đánh giá cao các sản phẩm Fucoidan Kanehide, trong đó có Nano Fucoidan. Đặc biệt, xin cảm ơn các quý đối tác, quý khách hàng đã tin tưởng và sử dụng các sản phẩm Fucoidan do chúng tôi phân phối”.
Bà Phượng khẳng định: “Chúng tôi sẽ cố gắng nhiều hơn nữa, hợp tác với nhà sản xuất một cách chặt chẽ hơn nữa để mang những sản phẩm chất lượng nhất đến tay người tiêu dùng Việt, góp phần vào việc đẩy lùi bệnh tật, đặc biệt là bệnh ung thư”.
Sản phẩm Nano Fucoidan của Kanehide chính hãng đang được phân phối tại nhiều nhà thuốc lớn, uy tín trên toàn quốc. Các chuyên gia sức khỏe khuyến cáo, trên thị trường có rất nhiều sản phẩm Fucoidan Kanehide trôi nổi không rõ nguồn gốc, vậy nên người tiêu dùng Việt nếu muốn sử dụng sản phẩm cần tìm mua hàng chính hãng, đầy đủ tem nhãn. Điều này giúp đảm bảo chất lượng sản phẩm và thu được hiệu quả tốt nhất, tránh tiền mất tật mang.
(Đẹp) Ứng dụng công nghệ Nano trong điều trị bệnh ung thư
Vừa qua, hội thảo Liệu Pháp Miễn Dịch Sinh Học Nhật Bản đã được diễn ra tại Tp.HCM xoay quanh chủ đề về liệu pháp miễn dịch sinh học trong phòng ngừa ung thư.
Hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia hàng đầu về phòng ngừa ung thư như PGS.TS.BS Lê Bạch Mai – Nguyên Phó Viện trưởng Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia; GS.TS.BS Kim Wan Jae – Giám đốc Hiệp hội miễn dịch Sinh học Hàn Quốc; TS.BS Namiki Masanori – Advisor-Nippon Iodo Pharmaceutical Co., Ltd; Ông Tsutomu Sasaki – GĐ Điều hành Kinh Doanh Tập Đoàn Kanehide Bio Nhật Bản.
Tại buổi hội thảo, GS.TS.BS Kim Wan Jae đã chia sẻ liệu pháp đáp ứng miễn dịch sinh học BRM Nhật Bản; TS.BS Namiki Masanori cũng chia sẻ liệu pháp miễn dịch trúng đích tế bào ung thư – CIMN. Đồng thời, PGS.TS.BS Lê Bạch Mai cũng đã chia sẻ về phòng tránh hội chứng suy kiệt do ung thư. Ông Tsutomu Sasaki cũng chia sẻ về công nghệ chiết xuất DHA và EPA từ tảo biển và ứng dụng công nghệ Nano trong sản xuất Fucoidan.
Nano Fucoidan được sản xuất bởi Tập đoàn Kanehide Bio Nhật Bản, tập đoàn nghiên cứu sinh học số 1 tại Nhật Bản. Kanehide Bio chuyên sản xuất các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên tại quần đảo Okinawa và là tập đoàn đầu tiên áp dụng công nghệ sinh học cao tạo ra các sản phẩm dược phẩm và thực phẩm chức năng thay thế thuốc tại Nhật Bản. Đây cũng là đơn vị nghiên cứu và chiết suất thành công Fucoidan từ rong nâu Mozuku tại đảo Okinawa Nhật Bản và ứng dụng thành công công nghệ tạo hạt Nano vào việc sàn xuất Fucoidan, đây là bước đột phá mới giúp hấp thu Fucoidan hiệu quả và nhanh chóng cho bệnh nhân ung thư hiện nay.
FUCOIDAN
Nghiên cứu đã được công bố về fucoidan tăng gấp ba lần từ năm 2000 đến năm 2010. Các polyme carbohydrate biển có nguồn gốc từ tảo này thể hiện nhiều hoạt tính sinh học có giá trị. Bài tổng quan này thảo luận về vai trò của Fucoidan trong việc kiểm soát tình trạng viêm cấp tính và mãn tính thông qua phong tỏa selectin, ức chế enzym và ức chế thác bổ thể. Dữ liệu gần đây về độc tính và sự hấp thụ fucoidan được trình bày chi tiết cùng với cuộc thảo luận về các hoạt động so sánh của các phân đoạn của fucoidan từ các nguồn khác nhau. In vivo gần đây , in vitrovà nghiên cứu lâm sàng liên quan đến nhu cầu lâm sàng đa dạng được thảo luận. Các mục tiêu bao gồm viêm xương khớp, bệnh thận và gan, các bệnh truyền nhiễm bị bỏ quên, điều chế tế bào gốc tạo máu, bảo vệ khỏi tác hại của bức xạ và phương pháp điều trị rắn cắn. Trong những năm gần đây, việc sản xuất các phân đoạn fucoidan có thể tái tạo được đặc trưng tốt trên quy mô thương mại đã trở nên khả thi khiến cho các liệu pháp điều trị từ fucoidan trở thành một mục tiêu có thể thực hiện được.
1. GIỚI THIỆU VỀ FUCOIDAN
Fucoidan là một loại polyme giàu fucose, sulfat được tìm thấy trong tảo vĩ mô nâu [ 1 , 2 ]. Chúng được xác định vào nửa đầu thế kỷ trước bởi Kylin [ 3 ]. Nghiên cứu tiếp theo của các nhà nghiên cứu như Bird [ 4 ] và Per cổ [ 5 ] đã xác nhận danh tính cơ bản của nhóm hợp chất này. Black báo cáo sự phân lập có hệ thống của fucoidan từ một số loại tảo biển khác nhau của Anh [ 6]. Fucoidan đã được công nhận là có vai trò trong sinh học của rong biển, và được kiểm tra trong vài thập kỷ tới về hoạt động của nó trong một số hệ thống sinh học. Mối quan tâm nghiên cứu hiện tại về Fucoidan là toàn cầu. Nghiên cứu được thực hiện ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc cùng với châu Âu và châu Mỹ. Cường độ hoạt động sinh học của Fucoidan thay đổi theo loài, trọng lượng phân tử, thành phần, cấu trúc và đường dùng.
Mặc dù có các hoạt tính sinh học đáng chú ý và không có độc tính qua đường miệng, fucoidan vẫn tương đối chưa được khai thác như một nguồn trị liệu do nguồn thực vật và tính không đồng nhất của chúng. Trong những thập kỷ gần đây, các công ty dược phẩm ưa thích các phân tử nhỏ hơn được xác định rõ ràng “có thể đánh thuốc được”, dẫn đến việc bỏ qua cơ hội cho các thực thể lớn hơn và đa phân tử. Các loại thuốc cao phân tử có nguồn gốc tự nhiên cũ hơn như heparin đã giữ vị trí của mình trong dược lý hiện đại bất chấp những lo ngại gần đây [ 7]. Các nguồn rong biển được kiểm soát cẩn thận cùng với các phương pháp khai thác và mô tả đặc tính hiện đại để tạo ra các sản phẩm có thể tái tạo được xác định cùng với các phương pháp quản lý mới có nghĩa là các phân đoạn fucoidan có thể được sản xuất theo tiêu chuẩn phù hợp làm thành phần trong các thiết bị y tế và thậm chí vượt qua ngưỡng vào lộ trình phát triển thuốc [ 8 ]. Ngoài ra còn có nhiều ứng dụng tiềm năng cho các sản phẩm Fucoidan trong y học bổ sung và các ứng dụng tại chỗ.
Việc đọc các tài liệu có thể gây nhầm lẫn do các nguồn khác nhau và các phần của fucoidan được sử dụng. Nhìn chung, fucosan chứa một tỷ lệ cao fucose trong đường xương sống của polyme. Chúng bị sulfat hóa, có thể bị axetyl hóa và cũng có thể chứa axit uronic. Sản lượng của phần đầu tiên thô của fucoidan thường là 2–10% trọng lượng, mặc dù các loài Cladosiphon có thể cho sản lượng trên 20% trọng lượng khô. Các loại Fucoidan có nguồn gốc từ tảo biển đều có khả năng phân nhánh cao. Nguồn thứ hai của các fucan dạng mạch thẳng chứ không phải dạng nhánh là động vật da gai, đặc biệt là hải sâm, phần lớn nằm ngoài phạm vi của bài đánh giá này. Các bài đánh giá trước đó về cấu trúc và ý nghĩa của các loại fucoidan có thể được tìm thấy trong Fitton [ 9 ], Pomin [ 10 ] và Berteau [ 2] và cả của Li [ 11 ].
Nguồn phổ biến nhất của fucoidan thử nghiệm được sử dụng trong các tài liệu có nguồn gốc từ Fucus vesiculosis , một vụ thu hoạch phổ biến của tảo bẹ bắc bán cầu. Fucoidan này, giống như tất cả các chất chiết xuất từ fucoidan chính, là dị tật và được Nishino đặc tả rõ ràng trong một bài báo trang nhã [ 12 ]. Fucus vesiculosis fucoidan là một loại fucoidan có hàm lượng fucose sulfat cao. Các loại fucoidan thông thường khác có nguồn gốc từ các loài ăn được như Cladosiphon okamuranus , Laminaria japonica và Undaria pinnatifida . Những loại rong biển này được thu hoạch với số lượng đáng kể trên khắp châu Á và có độc tính tuyệt vời. Các loại đường xương sống lại khác. Undaria pinnatifidaVí dụ, fucoidan chứa một tỷ lệ cao của galactose.
Đánh giá này bắt đầu bằng cách xác định nghiên cứu mới về sự hấp thụ và độc tính của fucoidan. Thứ hai, đánh giá này giới hạn phạm vi sử dụng điều trị tiềm năng của Fucoidan trong các khu vực liên quan đến viêm; chấn thương, nhiễm trùng, viêm mãn tính và xơ hóa, và cuối cùng là bảo vệ chức năng tế bào thần kinh. Những lĩnh vực này đại diện cho những lĩnh vực cần các phương pháp tiếp cận mới và có lẽ tiềm năng lớn hơn cho việc thương mại hóa công nghệ mới. Không có suy ra rằng các lĩnh vực khác của hoạt tính sinh học của Fucoidan là không quan trọng, hoặc thực sự, ít có khả năng dẫn đến việc sử dụng điều trị trong thế giới thực. Nghiên cứu về tác dụng ức chế ung thư của các phân đoạn fucoidan được xem xét ở nơi khác [ 2 , 9 ] và không nằm trong phạm vi của bài đánh giá này.
2. CÔNG DỤNG CỦA FUCOIDAN
Câu hỏi chưa được trả lời là “Fucoidan sẽ đi đâu sau khi uống, tiêm trong màng bụng hoặc tiêm tĩnh mạch?” Mặc dù một số tài liệu nghiên cứu chỉ ra tác dụng sinh học sau khi uống hoặc phân phối toàn thân, rất ít nghiên cứu về sự hấp thu và số phận của Fucoidan. Kỳ vọng rằng các phân tử lớn không được hấp thụ qua đường miệng gây ra khó khăn trong việc hiểu các tác động toàn thân rõ ràng xảy ra như thế nào. Các nghiên cứu ban đầu về quá trình tiêu hóa của Fucoidan cho thấy rằng nó không bị thay đổi bởi hệ vi khuẩn của con người và được đào thải hoàn toàn [ 13 , 14 ]. Có lẽ các quan sát toàn thân một phần là kết quả của các hiệu ứng prebiotic? Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng có những thay đổi thuận lợi trong hệ vi khuẩn đường ruột sau khi uống Fucoidan, bao gồm cả việc tăng Lactobacilli [ 15,16].
Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng về sự hấp thụ các phân tử polysaccharide lớn hơn như chondroitin sulfate [ 17 ] và polyethylene glycol [ 18 ], mặc dù với số lượng nhỏ. Nghiên cứu gần đây hơn của Irhimeh [ 19 ], Tokita [ 20 ] và Nakazato [ 21 ] củng cố trường hợp hấp thu một lượng nhỏ toàn thân từ liều uống trong đó fucoidan không thay đổi trong huyết thanh.
Irhimeh đã sử dụng một phương pháp dựa trên kháng thể để phát hiện một lượng nhỏ fucoidan có nguồn gốc từ Undaria được uống qua đường miệng trong huyết thanh trong một nghiên cứu lâm sàng trên người [ 19 ]. Gần đây hơn, Tokita chỉ ra rằng fucoidan có nguồn gốc từ Cladosiphon uống qua đường miệng có thể được phát hiện trong huyết thanh ở mô hình chuột [ 20] ở cấp độ thấp hơn hai bậc cường độ mà Irhimeh quan sát được. Sự khác biệt trong các quan sát về nồng độ trong huyết thanh có thể được giải thích bởi sự khác biệt về nguồn fucoidan được sử dụng, khoảng thời gian mà các quan sát được thực hiện (giờ so với ngày uống) và phương pháp phát hiện (cụ thể chứ không phải kháng thể phản ứng chéo ). Tokita cũng ghi lại hồ sơ trọng lượng phân tử của fucoidan khi được hấp thụ, cho thấy trọng lượng phân tử fucoidan không thay đổi trong huyết thanh hoặc huyết tương. Fucoidan có trọng lượng phân tử thấp hơn đã được quan sát thấy trong nước tiểu, điều này có thể cho thấy một cơ chế phân hủy fucoidan của động vật có vú cho đến nay vẫn chưa được biết đến. Sự tích tụ của polysaccharid sulfat trong thận và sự bài tiết qua nước tiểu của chúng đã được ghi nhận bởi Guimaraes vào năm 1997 [ 22] mặc dù trong trường hợp này, fucoidan được truyền qua đường tĩnh mạch.
Nakazato [ 21 ] đã kiểm tra số phận của một phần thô (trung bình 28 kDa) và một phần con có trọng lượng phân tử cao hơn (41,4 kDa) của Cladosiphon okamuranusFucoidan có nguồn gốc được sử dụng trong nước uống ở 2% w / v ở mô hình chuột, xác định nồng độ của fucoidan trong gan. Nghiên cứu này đã chứng minh rõ ràng tác dụng ức chế của fucoidan có trọng lượng phân tử cao hơn được phân phối bằng đường uống đối với chứng xơ hóa gan gây ra, có liên quan đến việc giảm biểu hiện mô của yếu tố tăng trưởng chuyển đổi beta (TGF beta) và yếu tố có nguồn gốc từ mô đệm (SDF1 còn được gọi là CXCL12), thụ thể đối với CXCR4. Nghiên cứu này rất quan trọng, không chỉ vì nó minh họa tiềm năng ức chế xơ hóa của fucoidan, mà còn chứng minh sự phân bố toàn thân của phân tử sau khi uống ở mô hình động vật này.
Tất cả các nghiên cứu này đều sử dụng công nghệ kháng thể để nhuộm màu hoặc định lượng fucoidan. Sự sẵn có ngày càng nhiều của các kháng thể sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho loại hình nghiên cứu này. Mizuno cũng điều chế các kháng thể đơn dòng phản ứng với fucoidan được phân lập từ Laminaria japonica và Kjellmaniella gyrate , nhưng không phải với fucoidan từ Undaria pinnatifida [ 23 ]. Tuy nhiên, chúng chỉ được sử dụng để nhuộm màu cho fucoidan trong các chế phẩm rong biển. Các nhà nghiên cứu trước đó cũng đã phát triển các kháng thể đối với Fucus vesiculosis fucoidan cho các mục đích thực vật [ 24 ].
3. DƯỢC LỰC CỦA FUCOIDAN
Fucoidan có nguồn gốc từ tất cả các loài dường như không có độc tính trong ống nghiệm và in vivo . Trong các báo cáo độc chất học gần đây, fucoidan có nguồn gốc từ Undaria pinnatifida và Laminaria japonica được cho là an toàn trên các mô hình động vật ở mức độ tiêu hóa rất cao [ 25 , 26 ]. Tính an toàn khi uống của Fucoidan được lặp lại trong các nghiên cứu lâm sàng. Các nghiên cứu lâm sàng trên người bằng cách sử dụng Fucoidan qua đường miệng cho thấy không có độc tính với liều 1 g mỗi ngày trong vòng 3 tháng [ 27 ], hoặc 3 g mỗi ngày trong 12 ngày [ 28 , 19 ]. Điều thú vị và quan trọng cần lưu ý là fucoidan có hoạt tính điều chỉnh đông máu đáng kể trong ống nghiệm. Hoạt động này đã được lặp lại ở Irhimeh 2009 [ 29 ], trong đó thời gian đông máu toàn cầu giảm đáng kể được ghi nhận sau khi uống 3 g Undaria pinnatifida fucoidan mặc dù chúng vẫn nằm trong phạm vi lâm sàng bình thường. Thời gian đông máu được tăng lên ở liều cao hơn 900 mg / kg trọng lượng cơ thể ở mô hình chuột với Laminaria japonica fucoidan [ 26 ], nhưng thú vị là không có sự thay đổi về thời gian đông máu được ghi nhận ở mô hình chuột, trong đó Undaria pinnatifida fucoidan ở 1350 mg / kg trọng lượng cơ thể đã ăn vào [ 30 ].
4. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CÁC LOẠI FUCOIDAN
Một khó khăn trong việc so sánh trong các tài liệu nằm ở nhiều biến thể về trọng lượng phân tử và thành phần của các phân đoạn fucoidan được sử dụng. Các phân đoạn rất khác nhau về độ tinh khiết, thành phần, trọng lượng và sự sulfat hóa ngay cả từ cùng một loài macroalga. Vì polyphenol và các thành phần khác có trong tảo vĩ mô cũng có hoạt tính sinh học, các phân đoạn kém tinh khiết hơn có thể cung cấp dữ liệu nhiễu [ 9 , 35 ].
Một bài báo gần đây của nhiều tác giả đã so sánh các loại fucoidan từ các nguồn khác nhau trong một bộ các thử nghiệm sinh học [ 36 ]. Nghiên cứu toàn diện của Cumashi và các đồng nghiệp sử dụng các kỹ thuật chuẩn bị có thể so sánh được để tạo mẫu và tập trung vào các nguồn rong biển bền vững thương mại (hoặc có khả năng thương mại). Dữ liệu của họ minh họa kỹ lưỡng các hoạt tính sinh học phổ biến của các loại fucoidan và sự khác biệt của chúng. Tất cả các loại Fucoidan được thử nghiệm bạch cầu bị ức chếtuyển dụng trong một mô hình viêm ở chuột. Mô hình được sử dụng bao gồm viêm phúc mạc cấp tính gây ra ở chuột Wistar cái và đo lượng bạch cầu trung tính vào khoang phúc mạc. Các loại thuốc thử nghiệm được cung cấp qua đường tĩnh mạch. Fucoidan được biết đến nhiều như là chất ngăn chặn L-selectin và được tìm thấy để ức chế sự xâm lấn của bạch cầu trung tính vào khoang phúc mạc. Các thông số đông kết cũng được đánh giá. Các chất ức chế hoạt động mạnh nhất là fucoidan từ Laminaria saccharina và Fucus evanescens , ức chế hơn 90% sự thoát mạch của bạch cầu trung tính trong khi fucoidan từ Fucus chưng cất và Fucus twistischỉ ức chế 60% sự di chuyển của bạch cầu trung tính. Các thông số khác được khảo sát bao gồm ức chế P selectin trong một mô hình kết tập tiểu cầu, các thông số đông máu và sự kết dính của tế bào ung thư với tiểu cầu trong ống nghiệm . Tất cả các fucoidan, ngoại trừ từ Cladosiphon okamuranus , đều thể hiện hoạt tính chống đông máu trong ống nghiệm và in vivo . Fucoidan từ Laminaria saccharina, Laminaria digitata , Fucus serratus , Fucus chưng cất và Fucus vesiculosusức chế hiệu quả sự kết dính của tế bào ung thư biểu mô vú với tiểu cầu, một hiệu ứng có thể chỉ ra sự ức chế “sự che phủ tiểu cầu”, một cơ chế được sử dụng bởi các tế bào ung thư để di căn khắp cơ thể [ 37 ].
Những người khác đã nghiên cứu tác động tương đối của các phân đoạn trọng lượng phân tử cao hơn và thấp hơn của cùng một nguồn fucoidan và tìm thấy sự khác biệt đáng kể về hoạt tính sinh học của chúng. Đầu tiên, Nakazato phát hiện ra rằng một phần fucoidan có trọng lượng phân tử cao hơn được phân phối bằng đường uống có hiệu quả hơn so với một loại fucoidan thô không phân đoạn trong việc ức chế xơ hóa gan [ 21 ]. Thứ hai, Maruyama xác nhận rằng fucoidan có hiệu quả như một chất chống khối u và điều chỉnh hệ miễn dịch [ 38 , 39 ]. Sau đó Shimizu cho chuột uống ba chế phẩm khác nhau của Fucoidan từ Cladosiphon okamuranus cho chuột [ 40]. Các phát hiện quan trọng là sự gia tăng biểu hiện CD8 trong lá lách của những con chuột được cho ăn Fucoidan có trọng lượng phân tử cao nhất. Tỷ lệ CD4 / CD8 có xu hướng giảm và số lượng tế bào biểu hiện tế bào CD11b (NK, bạch cầu đơn nhân và tế bào đại thực bào) có xu hướng tăng lên so với những con chuột được cho ăn Fucoidan có trọng lượng phân tử thấp hơn.
Thứ ba, Park đã kiểm tra tác động khác biệt giữa các phân đoạn trọng lượng phân tử cao và thấp của fucoidan trong một mô hình viêm khớp [ 41 ]. Có một sự tương phản rõ rệt trong hai chế phẩm. Phần trọng lượng phân tử cao kích hoạt quá trình viêm, trong khi phần trọng lượng phân tử thấp ức chế bệnh.
Sự ẩn náu của rắn có thể được cải thiện bởi fucoidan (xem Phần 6.15. Trong một thử nghiệm để xác định xem trọng lượng phân tử thấp hơn có làm tăng khả dụng sinh học của fucoidan và hiệu quả của nó hay không, Azofeifa đã tìm ra điều ngược lại [ 42 ]. Fucoidan có trọng lượng phân tử cao là cần thiết để đạt được hiệu quả điều trị chống lại nọc độc thô in vivo , trong khi chế phẩm có trọng lượng phân tử thấp hơn không hiệu quả, mặc dù in vitro hiệu quả như nhau .
Cuối cùng, cách thức sử dụng Fucoidan có thể tạo ra sự khác biệt đối với hoạt động. Điều này được minh họa rõ ràng trong nghiên cứu được trình bày bởi Yanase, người mô tả việc ức chế phản ứng IgE đối với albumin bằng fucoidan trong phúc mạc [ 43 ]. Nồng độ IgE trong huyết thanh tăng cao đối với các chất gây dị ứng môi trường thông thường là một đặc điểm của các bệnh dị ứng như hen suyễn và viêm da dị ứng. Phát hiện ra rằng Fucoidan ức chế sản xuất IgE bởi các tế bào B trong ống nghiệm, họ đã nghiên cứu tác dụng của nó trong một mô hình dị ứng ở chuột. Trong nghiên cứu này, sự gia tăng kích thích của IgE trong huyết tương đã bị ngăn chặn khi Fucoidan được phân phối trong màng bụng với liều lượng 100 mcg trên mỗi con chuột, nhưng không phải khi được phân phối bằng đường uống với liều lượng 10 mg mỗi con chuột. Thật thú vị khi so sánh điều này với nghiên cứu của Hayashi, trong đó Fucoidan được phân phối bằng đường uống có hiệu quả trong việc giảm hiệu giá virus ở chuột sau khi nhiễm cúm [ 44 ].
Những ví dụ gần đây là minh họa về sự biến đổi trong fucoidan và sự cẩn thận cần được thực hiện khi phát triển một phân số cho một ứng dụng cụ thể. Chúng cũng minh họa hoạt tính sinh học đáng chú ý của các phân tử có cấu hình độc tính thấp.
5. VIÊM VÀ SƠ HÓA
Viêm có thể được phân loại là cấp tính hoặc mãn tính. Viêm cấp tính, có thể xảy ra do nhiễm trùng hoặc chấn thương, được đặc trưng bởi sự phân giải nhanh chóng, viêm bạch cầu trung tính và phù nề. Viêm mãn tính là một phản ứng tồn tại trong vài tháng và được đặc trưng bởi quá trình viêm, tái tạo và sửa chữa mô xảy ra đồng thời mà không giải quyết được. Trong khi có các rối loạn sợi cơ riêng biệt về mặt lâm sàng, chúng thường bắt đầu từ một tình trạng viêm nặng thêm dai dẳng duy trì sản xuất các enzym phân giải chất nền, các yếu tố tăng trưởng và cytokine, dần dần phá hủy cấu trúc mô bình thường và gây tổn thương cơ quan [ 45 ].
Các phản ứng viêm cấp tính trải qua sau một sự kiện thiếu máu cục bộ chẳng hạn như một cơn đau tim, có thể phá hủy các cơ quan. Tổn thương cơ quan sau thiếu máu cục bộ là kết quả của các đợt viêm theo mô hoại tử. Các bệnh liên quan đến viêm mãn tính làm suy nhược. Nguyên nhân gây viêm rất đa dạng, từ nhiễm virus đến rối loạn chuyển hóa toàn thân. Viêm mãn tính có thể làm tăng khả năng di căn của ung thư và dẫn đến gia tăng các quá trình bệnh khác. Các liệu pháp điều trị bằng miệng, không độc hại để giải quyết tình trạng viêm cả ngắn hạn và dài hạn đều rất được mong đợi.
Tiềm năng của Fucoidan nằm ở tác dụng chống viêm toàn thân của nó. Chúng bao gồm ức chế selectin, ức chế hoạt động của bổ thể và ức chế enzym.
5.1 Ức chế Selectins
Fucoidan là một công cụ nghiên cứu nổi tiếng như một chất phong tỏa selectin [ 36 , 46 – 54 ]. Selectin là các thụ thể bề mặt tế bào trên các tế bào bạch cầu thực hiện chức năng hãm tế bào, cho phép chúng lăn trên bề mặt nội mô cơ quan và cuối cùng đi vào không gian mô đó. Fucoidan ngăn chặn selectins P và L, do đó, sự kết dính và lăn của bạch cầu , do đó làm giảm viêm ở toàn bộ các cơ quan như tim, thận hoặc gan. Cumashi và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng ngăn chặn selectin tương đối của các loại fucoidan từ các nguồn khác nhau [ 36]. Những điều này đã được thảo luận trước đó trong bài đánh giá này. Tất cả các loại fucoidan được thử nghiệm đều có hiệu quả trong việc ức chế sự thoát ra của bạch cầu trung tính trong hệ thống mô hình viêm phúc mạc.
Tác dụng phong tỏa selectin đã được thiết lập in vivo như một liệu pháp tiềm năng để ngăn ngừa tổn thương tái tưới máu sau thiếu máu cục bộ và tổn thương tim tự miễn [ 51 ]. Trong mô hình phẫu thuật của Tanaka, nước muối hoặc fucoidan được đưa vào màng bụng cho chuột trong 28 ngày bằng phẫu thuật giả hoặc tiêm myosin tim để kích thích viêm cơ tim tự miễn dịch. Sự xâm lấn của các tế bào T dương tính với CD4 vào cơ tim là bệnh lý ban đầu trong mô hình này. Sau 3 tuần, điều trị bằng Fucoidan đã cải thiện chức năng của cơ tim và trọng lượng của nó khi so sánh với đối chứng. Điều trị bằng Fucoidan làm giảm các dấu hiệu viêm huyết thanh, vùng viêm cơ tim và ức chế sự xâm nhập của đại thực bào và tế bào T-CD4 dương tính vào cơ tim.
Năm 2010, Thomes đã nghiên cứu tác dụng của Cladosiphon okamuranus fucoidan trong mô hình nhồi máu cơ tim ( tức là nhồi máu cơ tim) do isoproterenol gây ra [ 52 ]. Uống fucoidan có nguồn gốc từ Cladosiphon ở mức 150 mg / kg trong 7 ngày có tác dụng bảo vệ rõ rệt đối với các di chứng của nhồi máu, bao gồm hạ men tim và lipid máu. Giống như nhiều nhà nghiên cứu khác, Thomes tranh luận xem liệu tác động có phải là do hấp thụ hay có thể là do những thay đổi miễn dịch trong ruột.
Trong nghiên cứu được thiết kế tốt bởi Kubes và các đồng nghiệp, cơ chế bảo vệ cơ quan sau thiếu máu cục bộ của Fucus vesiculosis fucoidan đã được chứng minh không phải là một cơ chế đơn giản [ 47]. Kubes đã sử dụng kính hiển vi trong ổ bụng để xem xét sự tái tưới máu của gan sau một sự kiện thiếu máu cục bộ hoặc tiếp xúc với nội độc tố. Fucoidan ức chế hiệu quả sự xâm nhập của bạch cầu trung tính sau khi thiếu máu cục bộ chứ không phải sau khi tiếp xúc với nội độc tố. Kubes lưu ý rằng thiếu máu cục bộ ở gan cũng dẫn đến tình trạng thiếu máu cục bộ ở ruột và đưa ra giả thuyết rằng việc bảo vệ gan thực sự là kết quả của việc bảo vệ ruột, ngăn ngừa tình trạng viêm ở hạ vị của gan. Sau khi định tuyến lại tuần hoàn và loại bỏ ruột ở mô hình chuột, Fucoidan không bảo vệ chống lại sự kết dính của bạch cầu trung tính trong gan ở mức độ tương tự, xác nhận rằng tác dụng bảo vệ một phần là do ức chế tình trạng viêm trong ruột.
Gần đây nhất, chứng viêm não tủy thử nghiệm đã giảm bớt khi sử dụng Fucoidan [ 53 ]. Kim đã sử dụng 50 mg / kg, tiêm Fucoidan vào màng bụng hàng ngày cho chuột để kiểm tra xem nó có thể điều trị hoặc ngăn ngừa bệnh viêm não tủy được tạo ra bằng cách tiêm chủng với protein cơ bản myelin của chuột lang hay không. Liều dự phòng được thực hiện một ngày trước khi chủng ngừa và 6 ngày sau đó. Liều điều trị được thực hiện từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 14 của bệnh. Điều đáng ngạc nhiên là việc phòng ngừa không thành công ngược lại với việc điều trị mang lại hiệu quả cao. Việc giảm bớt các tác dụng lâm sàng đồng thời với việc giảm sự xâm nhập của các tế bào viêm trong tủy sống bị ảnh hưởng, một phần có thể là do sự phong tỏa L selectin và sự ức chế của các tế bào T CD4 + cụ thể.
P selectin hiện diện trên tiểu cầu và hỗ trợ quá trình kết tập. Xenografting (cấy ghép một cơ quan từ loài này sang loài khác) thường phức tạp bởi các phản ứng đông máu bất thường. Trong một nỗ lực để khắc phục điều này, Alwayn [ 54 ] đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số tác nhân lên quá trình đông máu gây ra xenograft trong một mô hình khỉ đầu chó. Fucoidan từ Fucus vesiculosis đã rất thành công trong việc ức chế sự kết tập tiểu cầu mặc dù sự xáo trộn của đông máu được coi là có vấn đề. Alwayn đã không xem xét khả năng ức chế hoạt hóa bổ thể, mặc dù đây là yếu tố hạn chế được biết đến trong bệnh lý xenografts [ 55 ].
5.2 Ức chế bổ xung
Bổ thể là một hệ thống các protein enzym xuất hiện trong huyết thanh bình thường, giúp điều hòa khả năng miễn dịch và hình thành một phần của hệ thống phòng thủ mầm bệnh [ 55 ]. Nó bao gồm các con đường “cổ điển” và “thay thế” được kích hoạt và kết hợp với các phức hợp kháng thể-kháng nguyên, tạo ra sự ly giải trong các tế bào bị ảnh hưởng. Bổ sung bao gồm khoảng 30 protein, được gọi là C1 đến C9, với các kiểu phụ cho mỗi protein. Các thành phần C3 và C5 có liên quan đến việc thúc đẩy quá trình hóa học của bạch cầu trong khi C1 và C4 tham gia vào phản ứng kháng thể đặc hiệu đối với vi rút. Con đường bổ thể thay thế là trình tự trong đó C3 và C5 đến C9 được kích hoạt mà không có sự tham gia của C1, C2 và C4 hoặc sự hiện diện của phức hợp kháng thể-kháng nguyên. Các phân đoạn Fucoidan là chất ức chế rất hiệu quả của dòng thác này [ 55- 59 ] mạnh hơn heparin ít nhất 40 lần.
Fucoidan có thể ngăn chặn sự hình thành của C3 convertase cổ điển. Điều này có thể ngăn cản việc sản xuất các chất độc phản vệ tiền viêm và tiếp tục đi xuống dòng thác, đoạn C3b. Thật vậy, đây là một trong những cơ chế có thể có mà qua đó Fucoidan có tác dụng chống dị ứng, như được quan sát trong các mô hình thử nghiệm đa dạng.
Tissot đã chứng minh rằng fucoidan liên kết mạnh mẽ với C1q và chỉ ra rằng sự ức chế liên kết bổ thể với các thụ thể C1q có trên tế bào nội mô có thể hỗ trợ đào thải xenograft (cấy ghép giữa các loài) [ 56 , 57 ]. Thật vậy, fucoidan có nguồn gốc từ Ascophyllum nodosum bảo vệ các tế bào nội mô của lợn chống lại quá trình ly giải qua trung gian bổ thể chịu trách nhiệm đào thải [ 56 ]. Nghiên cứu gần đây hơn về bảo vệ xenograft đã phát hiện ra rằng Fucus vesiculosis fucoidan là chất ức chế hữu ích đối với sự kết tập tiểu cầu – do kết quả của việc phong tỏa selectin, mặc dù mối quan tâm đã được đặt ra về tác dụng chống đông máu tạm thời của nó. Thật kỳ lạ, việc phong tỏa bổ thể không được xem xét trong nghiên cứu này [ 54].
Fucoidan được biết đến là polysaccharide có nhiều nhánh nhưng ý nghĩa tiềm năng của cấu trúc phân nhánh về hoạt tính sinh học vẫn chưa được xem xét cho đến khi nghiên cứu của Clement năm 2010 [ 60 ]. Trong một nghiên cứu NMR thanh lịch, Clement giải quyết sự không đồng nhất về cấu trúc và sự sulfat hóa ngẫu nhiên của chuỗi polysaccharide liên quan đến cách chúng ảnh hưởng đến sự liên kết và ức chế bổ thể. Các kết quả cho thấy rằng sự phân nhánh của oligosaccharides fucoidan là một yếu tố chính trong hoạt động chống bổ sung của chúng ở mức độ phù hợp. Công trình này rất có ý nghĩa vì nó chứng minh rằng không chỉ trọng lượng phân tử, sự sulfat hóa và thành phần đường ảnh hưởng đến hoạt tính sinh học, mà còn cả cấu trúc ba chiều. Khi các liệu pháp từ Fucoidan được phát triển, một cách tiếp cận toàn diện đối với tất cả các thông số này là điều cần thiết.
5.3 Ức chế Enzyme
Fucoidan cũng có hoạt tính ức chế enzym đáng kể chống lại một số enzym bao gồm metalloproteases ma trận, hyaluronidase và elastases [ 61 , 62 ]. Hoạt động ức chế này hạn chế sự phân hủy mô trong các môi trường viêm do chấn thương và bệnh tật và thậm chí có thể ức chế sự di căn.
Bức xạ tia cực tím là một nguyên nhân nổi bật gây ra ảnh hưởng đến da và thậm chí là ung thư da. Nó gây ra sự gia tăng rõ rệt hoạt động của elastase, phá vỡ các sợi elastin, làm tăng nhanh tình trạng da mất đi [ 63 ]. Nghiên cứu được báo cáo vào năm 2009 chỉ ra rằng tổn thương bức xạ tia cực tím đối với các nguyên bào sợi da trong ống nghiệm , gây ra sự gia tăng các metalloprotease nền và giảm mức procollagen, giảm rõ rệt khi có sự hiện diện của Fucus vesiculosis fucoidan [ 64 ]. Senni đã báo cáo một nghiên cứu toàn diện về tác dụng ức chế của Fucoidan. Sử dụng da người trong các thí nghiệm ex vivo , ông đã chỉ ra rằng fucoidan có thể hạn chế hoạt động elastase của bạch cầu người giúp bảo vệ các sợi đàn hồi khỏi bị thoái hóa [62 ]. Một nghiên cứu lâm sàng cũng chỉ ra tiềm năng tốt trong việc cải thiện lão hóa da [ 65 ]. Fucus vesiculosis fucoidan được thoa lên da với liều lượng 1% w / v hai lần mỗi ngày trong năm tuần. Đã ghi nhận sự giảm đáng kể về độ dày của da và cải thiện độ đàn hồi so với nhóm chứng.
Theo nghiên cứu mới của Hlawaty [ 66 ], ma trận metalloprotease loại 2 (MMP2) là nguyên nhân gây tăng sản vùng kín ở mô hình chuột. Trong mô hình này, động mạch chủ bị tổn thương và những con chuột được điều trị bằng cách tiêm bắp 5 mg / kg / ngày Fucoidan trọng lượng phân tử thấp có nguồn gốc từ bệnh Fucus vesiculosis trong hai tuần. Sự gia tăng của các thành cơ trơn gây ra sự thu hẹp của lòng mạch trong mạch bị tổn thương đã được đo lường và phát hiện ra rằng những con chuột được điều trị bằng Fucoidan đã thông thoáng hơn đáng kể. Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng phân đoạn fucoidan này có thể ức chế thành công sự tăng sinh cơ trơn [ 67]. Sau đó, nghiên cứu này đã xem xét hoạt động của enzyme trong tàu và phát hiện ra rằng fucoidan đặc biệt ức chế MMP2, một loại enzyme làm phân hủy collagen loại IV, một thành phần cấu trúc chính của màng đáy.
6. CÁC ỨNG DỤNG TỪ FUCOIDAN
Các ứng dụng được lựa chọn cho các liệu pháp dựa trên Fucoidan được thảo luận trong phần này. Dữ liệu lâm sàng cùng với dữ liệu in vivo và in vitro đầy hứa hẹn được thảo luận với tham chiếu đến một loạt các mục tiêu điều trị.
6.1. Viêm xương khớp
Viêm xương khớp là dạng viêm khớp phổ biến nhất và gây tàn phế nhất cho một số người ngày càng tăng khi dân số già đi. Nó được đặc trưng bởi sự thoái hóa chậm và tiến triển của sụn khớp. Mặc dù nó thường được coi là một căn bệnh “hao mòn” do quá trình lão hóa, viêm xương khớp có một thành phần di truyền mạnh mẽ và cũng bị ảnh hưởng bởi chấn thương và các bệnh như béo phì. Ngoài bản thân sụn, viêm xương khớp còn liên quan đến các mô xung quanh, bao gồm màng hoạt dịch và xương dưới sụn. Viêm xương khớp có một thành phần gây viêm, và chắc chắn là một thành phần phá vỡ mô mạnh dẫn đến đau và cứng [ 68 ].
Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra vai trò của Fucoidan trong việc giải quyết các triệu chứng của viêm xương khớp. Park và cộng sự. đã sử dụng một mô hình động vật về bệnh viêm khớp do collagen gây ra, và cho thấy rằng Undaria pinnatifida fucoidan dùng đường uống đã ức chế cơn đau thành công [ 41 ]. Trong một nghiên cứu lâm sàng nhỏ trên người, các triệu chứng viêm xương khớp được ức chế đáng kể khi uống chiết xuất tảo biển giàu fucoidan. Trong ba tháng, các triệu chứng đã giảm 52% [ 27 ]. Kết quả này giúp các triệu chứng thoái hóa khớp được cải thiện rõ rệt. Không có sự giảm TNF alpha được sử dụng làm dấu hiệu viêm, nhưng một nghiên cứu kèm theo ở những người tình nguyện khỏe mạnh cho thấy sự giảm Interleukin 6, một dấu hiệu cho chứng viêm mãn tính [ 33].
Cơ chế giảm đau được quan sát lâm sàng của bệnh viêm xương khớp là không rõ ràng. Đau có giảm đi nhờ sự phong tỏa của bạch cầu trung tính không? Cunha đã chỉ ra rằng fucoidan đã ngăn chặn thành công sự tích tụ của bạch cầu trung tính và kích thích cảm giác đau ở mô hình động vật [ 69 ]. Nghiên cứu của Cunha nhấn mạnh tầm quan trọng của bạch cầu trung tính như là nguyên nhân khởi phát quá trình tăng sinh viêm nhiễm và xác nhận rằng fucoidan ngăn chặn sự tích tụ của bạch cầu trung tính bằng cách phong tỏa selectin trong mô hình của chúng.
6.2. Keo phẫu thuật
Như đã xác định trước đó, fucoidan là một chất ngăn chặn selectin mạnh, và do đó có thể ức chế tổn thương do viêm, chẳng hạn như gây ra bởi chứng viêm sau thiếu máu cục bộ. Phản ứng xơ hóa sau khi bị viêm là nguyên nhân của một tình trạng gọi là “dính phẫu thuật”. Tình trạng này là kết quả vô hiệu của tổn thương nhỏ trong quá trình phẫu thuật bụng hoặc đôi khi sau nhiễm trùng. Các chấn thương nhỏ gây ra các phản ứng viêm trên bề mặt bên ngoài của ruột, tạo ra phản ứng xơ, dẫn đến các khu vực mà ruột bị gắn với thành phúc mạc hoặc với các phần khác của ruột. Các sản phẩm nhằm mục đích giảm sự kết dính sau phẫu thuật có mức độ thành công khác nhau. Hiện nay các kỹ thuật đã được phát triển bằng cách sử dụng fucoidan như một thành phần ở dạng phim [ 71 ]. Trong nghiên cứu năm 2010 của Cashman, aMàng được nạp Fucus vesiculosis fucoidan ức chế số lượng các chất kết dính trong mô hình thỏ lên đến 90%. Mức độ hiệu quả của việc tải fucoidan trong phim nằm trong khoảng từ 0,33% đến 33% w / w và không có độc tính nào được quan sát thấy.
6.3. Xơ gan
Xơ hóa gan xảy ra sau khi chất độc hoặc mầm bệnh xúc phạm đến gan. Chức năng của gan bị tổn hại do mô xơ tiếp quản các tế bào gan đang hoạt động và bệnh tật đáng kể có thể xảy ra sau đó. Một số công bố gần đây chỉ ra rằng Fucoidan có tác dụng bảo vệ chống lại tổn thương gan bằng cách ức chế quá trình xơ hóa và điều này có thể đạt được bằng cách uống thuốc trong các mô hình được thử nghiệm.
Trong gan bị tổn thương hoặc bị bệnh, các tế bào hình sao gan tăng sinh thành các khối xơ trong khi các tế bào gan chức năng hết hạn sử dụng. Nghiên cứu năm 2008 của Hayashi về carbon tetrachloride gây ra tổn thương gan cho thấy rằng fucoidan là một chất ức chế hiệu quả cao đối với loại xơ hóa này [ 72 ]. Saito đã sử dụng một mô hình tổn thương gan thay thế (Concanavalin A), nhưng sử dụng cùng một loại Fucus vesiculosis fucoidan [ 73 ] qua đường tĩnh mạch để ức chế tổn thương.
Nghiên cứu của Nakazato đã sử dụng một mô hình tổn thương gan khác, nhưng đã minh họa sự ức chế tổn thương sâu sắc bằng cách sử dụng các phân đoạn có trọng lượng phân tử cao của Cladosiphon okamuranus fucoidan [ 21 ]. Cả hai phân đoạn fucoidan thô (28 kDa) và trọng lượng phân tử cao (41.4 kDa) đều được phân phối ở 2% w / v trong nước uống trong 12 tuần. Phần trọng lượng phân tử cao là một chất ức chế mạnh N -nitrosodiethylamine (DEN) gây ra xơ hóa gan được đo bằng mô học và nhuộm. Có sự điều hòa giảm mạnh biểu hiện TGF beta và SDF1 trong gan so với nhóm chứng.
bệnh gan do d -galactosamine gây ra được sử dụng như một mô hình cho bệnh gan vì nó giống với bệnh viêm gan siêu vi cấp tính [ 74 ]. Kawano trước đây đã xác định tiềm năng điều trị của rong biển ăn được trong chế độ ăn của chuột thí nghiệm bị loại tổn thương gan này [ 75 ]. Trong nghiên cứu năm 2007 của mình, ông đã xác định các thành phần của rong biển gây ra sự ức chế bệnh gan. Mức độ tăng cao của aspartate và alanine aminotransferase đã bị ức chế đặc biệt bởi fucoidan trong chế độ ăn uống ở mức tương đương với mức độ trong toàn bộ rong biển ở mức 5% trong tổng số chế độ ăn uống [ 75 , 76 ]. Cuối cùng, Hayakawa đã giải quyết vấn đề ung thư biểu mô gan ở ex vivocác mẫu xơ gan mãn tính và viêm gan B và C từ bối cảnh lâm sàng và phát hiện ra rằng Fucus vesiculosis fucoidan có khả năng tác dụng điều trị [ 77 ].
Để kết luận, Fucoidan dường như có tiềm năng tốt như một liệu pháp hỗ trợ điều trị bệnh gan bằng đường uống.
6.4. Bức xạ và Fucoidan
Bức xạ gây ra một số tác hại tiềm tàng. Thứ nhất, việc hấp thụ các chất phóng xạ vào cơ thể sẽ gây ra tổn thương do bức xạ, đặc biệt là ở trẻ em. Thứ hai, chính tác hại của bức xạ gây ra cái chết của tế bào. Điều này đặc biệt nguy hiểm ở chỗ các tế bào miễn dịch có thể bị đào thải hoàn toàn. Các tế bào gốc tạo huyết thanh có tác dụng tái tạo hệ thống miễn dịch phát sinh trong tủy xương và được gọi là tế bào gốc tủy xương. Việc bảo vệ quần thể tổ tiên này là rất quan trọng trong cả môi trường y tế và cấp cứu.
Toàn bộ rong biển và các chất chiết xuất từ rong biển, đặc biệt là alginate, đã được ăn vào như một chất điều hòa tác hại của bức xạ [ 78 ]. Tác dụng khử nhiễm của xirô alginate và các chất bổ sung vào bánh mì và sữa đã được biết đến trong nhiều năm [ 79 ]. Alginate được sử dụng như một loại xi-rô hữu ích trong cả việc giảm hấp thu các nguyên tố phóng xạ và tăng bài tiết chúng hay còn gọi là “sự kết hợp” [ 80 ]. Trong khi iốt là một thành phần có trong tự nhiên và việc uống thường xuyên sẽ giúp duy trì độ bão hòa của tuyến giáp, cần đúng thời gian và hàm lượng iốt cao ở dạng natri iốtua để ngăn chặn sự hấp thu các đồng vị phóng xạ của iốt.
Fucoidan, mặc dù là một chất chelat, nhưng vẫn chưa được công nhận là một chất trang trí cho các hạt nhân phóng xạ. Tuy nhiên, nó đã được chứng minh là cung cấp khả năng bảo vệ bức xạ trong cả mô hình in vitro và chuột [ 81 , 82 ]. Fucoidan được biết là có khả năng kích thích sự trưởng thành của các tế bào đuôi gai, là những tế bào trình diện kháng nguyên mạnh mẽ trong hệ thống miễn dịch [ 83]. Byon đo mức độ biểu hiện của các chất đánh dấu bề mặt tế bào trong tế bào gốc tủy xương sau khi phóng xạ. Trong nghiên cứu này, fucoidan được phân phối trong màng bụng trước khi phóng xạ. Vì tủy xương là nguồn tế bào chính cho hệ thống tạo máu và miễn dịch, nó chứa một số lượng lớn tế bào lympho, bạch cầu hạt và tế bào mô đệm là tiền thân và tế bào trưởng thành. Kết quả của họ cho thấy rằng một quần thể tế bào cụ thể – bạch cầu hạt – có thể tồn tại một cách chọn lọc để đáp ứng với điều trị Fucoidan sau khi chiếu xạ [ 82 ].
Ở những con chuột được chiếu xạ, liều lượng tối ưu trước khi điều trị trong phúc mạc của fucoidan để tối đa hóa khả năng sống sót được xác định là 100 mg / kg đưa vào khoang phúc mạc [ 81 ]. Rhee cũng chứng minh khả năng bảo vệ khỏi chiếu xạ gamma ở chuột và trong ống nghiệm [ 83 ]. Laminaria japonicaFucoidan có nguồn gốc được phân phối trong màng bụng ở 100 mg / kg được phát hiện để bảo vệ chống lại những thay đổi về số lượng tế bào máu. Một số thông số cho thấy khả năng phục hồi tốt hơn sau khi chiếu xạ. Số lượng hồng cầu trong nhóm chứng được chiếu xạ dao động từ 64% đến 67% nhưng nhóm được điều trị bằng fucoidan tăng dần, dao động từ 75% đến 80%. Số ngày sống sót trung bình và tỷ lệ sống sót sau 50 ngày ở nhóm này là 29 ngày và 30% ở liều fucoidan cao nhất là 100 mg / kg so với 9 ngày và 0% đối với nhóm đối chứng.
6.5. Tế bào gốc và Fucoidan
Fucoidan là một chất huy động tế bào gốc được biết đến khi được truyền qua đường tĩnh mạch. Nó cũng cho thấy hoạt động sau đó được phân phối qua đường miệng [ 28 ]. Khi được truyền qua đường tĩnh mạch, Fucus vesiculosis fucoidan có hiệu quả cao trong việc huy động các tế bào gốc vào hệ tuần hoàn ngoại vi ở khỉ đầu chó và chuột. Cơ chế huy động dường như không chỉ liên quan đến việc ức chế liên kết selectin mà còn liên quan đến khả năng liên kết của fucoidan với SDF1 (CXCL12) [ 84 , 85 ]. Huy động tế bào gốc được sử dụng như một phương pháp thu thập đủ các tế bào tái tạo miễn dịch từ tuần hoàn ngoại vi được lưu trữ và tái khắc phục sau hóa trị và xạ trị ở một số bệnh nhân ung thư được chọn.
SDF1 liên kết với thụ thể CXCR4 kết hợp với protein G, có SDF1 là phối tử duy nhất của nó. CXCR4 được biểu hiện bởi một số tế bào gốc tạo máu, hầu hết các quần thể bạch cầu, tế bào nội mô, tế bào biểu mô và một số tế bào ung thư biểu mô. Sự liên kết SDF1 / CXCR4 này được cho là không chỉ liên quan đến việc điều chỉnh quá trình giải phóng và di chuyển tế bào gốc, mà còn trong một số quá trình bệnh, bao gồm cả quá trình hình thành sợi [ 85 ].
Sự liên kết của Fucoidan với SDF1 đã được tìm thấy để ngăn chặn quá trình tái tạo gan ở mô hình động vật [ 86 ]. Kết quả này trái ngược với khả năng bảo vệ bức xạ rõ rệt của các tế bào gốc tạo máu bởi fucoidan được mô tả trong Phần 6.4 và việc sử dụng hiệu quả của fucoidan trong việc ức chế bệnh gan ở một số mô hình động vật như được mô tả trong Phần 6.3. Trong ví dụ của Mavier, Fucus vesiculosisFucoidan được cung cấp trong màng bụng cho chuột ở mức 25 mg / kg trọng lượng cơ thể. Gan đã bị hư hại hoàn toàn, cả về mặt hóa học và vật lý, và quá trình tái tạo đã được quan sát thấy. Trong những trường hợp ít kịch tính hơn, gan tái sinh từ các tế bào biệt hóa trưởng thành nhưng khi bị thương hoặc sau khi cắt bỏ một phần gan kết hợp với việc ức chế tăng sinh tế bào gan trưởng thành, thì sự tái sinh sẽ đạt được từ các tế bào gốc gan, được gọi là “tế bào hình bầu dục”. Ở những con chuột bị hư hại đối chứng, có thể thấy sự tích tụ tế bào hình bầu dục, nhưng ở những con chuột được điều trị bằng Fucoidan, số lượng tế bào hình bầu dục bị suy giảm nghiêm trọng.
Việc cung cấp Undaria pinnatifida fucoidan bằng đường uống trong một nghiên cứu quan sát lâm sàng cũng dẫn đến sự gia tăng số lượng tế bào gốc, nồng độ SDF1 trong huyết thanh và sự biểu hiện của CXCR4 trên tế bào gốc (CD34 +) [ 28 ]. Quan sát này tương quan với các nghiên cứu trong ống nghiệm và động vật cho thấy rằng Fucoidan huy động các tế bào gốc, mặc dù mức độ huy động không lớn bằng vào thời điểm đo được. Sự gia tăng biểu hiện CXCR4 theo một cách nào đó có thể phản ánh sự liên kết của SDF1 bởi fucoidan.
Cuối cùng, việc cung cấp qua đường miệng chiết xuất rong biển trong một nghiên cứu lâm sàng bao gồm sự pha trộn của Fucus vesiculosis , Macrocystis pyrifera và Laminaria japonica fchargeans làm tăng khả năng thực bào của các tế bào hạt và đại thực bào [ 33 ] ngoài NK và số lượng tế bào T gây độc tế bào. Ngoài ra, dấu hiệu viêm mãn tính interleukin 6 được hạ thấp. Dữ liệu này có các đặc điểm chung với một nghiên cứu trên động vật do Shimizu [ 38 ] thực hiện và có thể chỉ ra khả năng bảo vệ chống phóng xạ của fucoidan được phân phối qua đường miệng.
6.6. Cân bằng nội môi trong máu
Nó nằm ngoài phạm vi của bài đánh giá này để xem xét toàn bộ nghiên cứu gần đây về các phân đoạn fucoidan và cân bằng nội môi trong máu. Tóm lại, các hợp chất fucoidan có tác dụng làm chậm quá trình đông máu một phần do can thiệp với đồng yếu tố antithrombin III và heparin II [ 87 ]. Tác dụng in vivo của việc cung cấp qua đường tĩnh mạch của hầu hết các loại fucoidan là kéo dài thời gian đông máu toàn cầu, một tác dụng có thể đảo ngược [ 36 ]. Kwak gần đây đã nghiên cứu tác dụng ức chế Fucus vesiculosis fchargeans trong một mô hình huyết khối gây ra clorua sắt ở chuột [ 88 ]. Fucoidan cho thấy tác dụng chống huyết khối mạnh hơn heparin. Các hoạt động chống thrombin và chống yếu tố Xa của Fucoidan in vitroít hơn so với heparin, điều này ngụ ý rằng các hoạt động chống huyết khối là do liên kết với heparin cofactor II hơn là với antithrombin.
Pomin giải quyết các vấn đề về hoạt động chống đông máu mạnh mẽ của các fucoan bằng cách khử lưu huỳnh, tạo ra các phân đoạn có hoạt tính sinh học mong muốn không bị ảnh hưởng bởi các hành vi chống đông máu [ 89 ]. Fucoidan sulfat hóa tuyến tính từ thạch trứng nhím biển yêu cầu chuỗi dài hơn đáng kể so với glycosaminoglycans của động vật có vú để đạt được cùng hoạt tính chống đông máu. Sự giảm nhẹ kích thước phân tử của fucan sulfat hóa làm giảm đáng kể tác dụng của nó đối với sự bất hoạt thrombin qua trung gian của heparin cofactor II. Fucoidan được sulfat hóa với 45 đơn vị lặp lại tetrasaccharide có thể liên kết với cofactor II của heparin nhưng không thể liên kết hiệu quả chất ức chế huyết tương và thrombin, đòi hỏi fucoidan phải có 100 đơn vị lặp lại tetrasaccharide trở lên.
Một nghiên cứu lâm sàng gần đây đã kiểm tra tác động của Fucoidan uống qua đường miệng đối với thời gian đông máu. 3 g Undaria pinnatifida fucoidan được người khỏe mạnh ăn hàng ngày trong 12 ngày [ 29 ]. Đã ghi nhận sự kéo dài đáng kể thời gian đông máu toàn cầu nhưng điều này nằm trong các thông số lâm sàng bình thường. Các nghiên cứu độc tính trên Undaria pinnatifida fucoidan trên chuột cho thấy không ảnh hưởng đến thời gian đông máu, ngay cả ở liều lượng rất cao [ 25 ]. Một nghiên cứu về độc chất học trên Laminaria japonica fucoidan đã cho thấy một số ống dẫn trong quá trình đông máu ở 900 mg / kg [ 26 ], cao hơn nhiều so với liều lượng được sử dụng trong nghiên cứu lâm sàng.
Nghiên cứu gần đây hơn về hoạt động minh họa tác dụng “tạo đông máu” hơi phản trực quan của Fucoidan trong mô hình bệnh ưa chảy máu [ 31 ]. Ở những con chó bị bệnh ưa chảy máu A, phân đoạn Laminaria japonica fucoidan được phân phối bằng đường uống đã cải thiện thời gian đông máu, có lẽ bằng cách tạo ra một nhánh rẽ trong con đường đông máu thường bị tắc nghẽn.
6,7. Bảo vệ thần kinh
Sự quan tâm ngày càng tăng trong việc giảm hoặc đảo ngược quá trình lão hóa não và bệnh tật đã thấy nhiều tác nhân được đánh giá về ảnh hưởng của chúng đối với tế bào thần kinh và chức năng não. Alzheimer là một bệnh não gây mất chức năng đáng kể và rất đáng buồn. Nó được đặc trưng bởi sự tích tụ của các mảng amyloid beta trong mô não. Người ta đã đưa ra giả thuyết rằng bệnh Alzheimer có liên quan đến nhiễm trùng Herpes trong hệ thần kinh trung ương [ 90 ]. Kích thước tương đối lớn của fucoidan ngăn cản sự xâm nhập của hàng rào máu não nhưng như đã lưu ý dưới đây, việc sử dụng toàn thân có hiệu quả trong việc duy trì chức năng tế bào thần kinh ở mô hình chuột.
Fucoidan cho thấy hứa hẹn trong việc bảo vệ chức năng não theo một số cách. Nó đã được Jhamandas [ 91 ] đánh giá toàn diện về tác dụng đối với dòng điện trong tế bào thần kinh toàn bộ não chuột và cả tác dụng gây độc thần kinh do beta amyloid gây ra trong tế bào thần kinh nuôi cấy sơ cấp. Fucus vesiculosis fucoidan ở một nồng độ micromolar có thể ức chế dòng đi 15%. Nó cũng có thể đảo ngược các tác động ngăn chặn hiện tại của beta amyloid. Fucoidan không ức chế sự kết hợp của beta amyloid, nhưng đã bảo vệ các tế bào thần kinh cholinergic cholinergic ở não trước của chuột, chống lại sự chết tế bào do amyloid gây ra.
Nghiên cứu gần đây của Cui tập trung vào một tế bào vi mô được kích hoạt lipopolysaccharide (LPS) [ 92 ]. Microglia thường là các tế bào đang nghỉ ngơi trong não, nhưng nếu được kích hoạt, chẳng hạn bởi LPS, chúng sẽ thay đổi hình dạng, trở nên hoạt động và tiết ra chất trung gian gây viêm và oxit nitric (NO). Nếu quá nhiều kích hoạt diễn ra, các tế bào thần kinh xung quanh sẽ chết, dẫn đến viêm nhiều hơn và bắt đầu một chu kỳ thoái hóa thần kinh. 62,5 mcg / mL fucoidan có thể ngăn chặn sự thay đổi hình dạng trong môi trường nuôi cấy vi tế bào tiếp xúc với LPS, và 125 mcg / mL ức chế sản xuất NO. Năm 2004, Li đã chứng minh DNA phân mảnh đặc trưng (fDNA) được quan sát thấy trong các nhân tế bào thần kinh trong não Alzheimer đã được tiếp nhận bởi các microglia hoạt hóa liền kề sau đó được kích hoạt [ 93]. Chặn các thụ thể xác thối trên các tế bào vi mô bằng Fucus vesiculosis fucoidan ở 40 ng / mL đã ngăn chặn sự hấp thu này.
Pei cũng đã chứng minh các thụ thể xác thối trên các tế bào microglial có thể bị Fucoidan ngăn chặn thành công [ 94 ]. Huang [ 95 ] đã sử dụng ghi âm thời gian trôi đi để điều tra xem microglia có liên quan như thế nào đến sự phát triển của mảng amyloid. Fucus vesiculosis fucoidan ở nồng độ 10 micromolar có thể ức chế hiệu ứng phân nhóm vi mô gây ra amyloid làm phát sinh các mảng. Do đã trình bày một nghiên cứu về yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-alpha) và interferon gamma (IFN-gamma) gây ra sự sản sinh NO trong tế bào u thần kinh đệm [ 96 ]. Fucoidan ức chế sản xuất NO trong hệ thống mô hình này thông qua một số con đường tín hiệu.
Luo, từ cùng nhóm nghiên cứu với Cui, đã nghiên cứu tác dụng của cùng một phân đoạn Laminaria japonica fucoidan trong một mô hình bệnh Parkinson ở chuột [ 97 ]. Chuột được cho uống Fucoidan với liều lượng 12,5 mg / kg hoặc 25 mg / kg, trong màng bụng hàng ngày trong 18 ngày. Tác nhân gây ra bệnh Parkinson được đưa ra vào ngày thứ 11 một giờ sau khi tiêm Fucoidan. Có một sự bảo vệ phụ thuộc vào liều lượng rõ ràng bởi Fucoidan ở mức 25 mg / kg trọng lượng cơ thể, bao gồm ức chế quá trình peroxy hóa lipid, các chức năng của enzym và mức độ glutathione.
6,8. Vi rút: Cúm, Herpes và Sốt xuất huyết
Tác dụng ức chế của Fucoidan đối với vi rút có màng bọc đã được biết đến nhiều và đã được Schaeffer đánh giá một thập kỷ trước [ 100 ]. Fucoidan không có hoạt động tiêu diệt mầm bệnh trực tiếp mà thay vào đó, chúng ức chế sự lây nhiễm thông qua việc ngăn chặn sự xâm nhập của thụ thể và can thiệp vào các quá trình sao chép. Các polysaccharid được sulfat hóa khác ngoài fucoidan được biết là có hoạt tính ức chế chống lại các virut có màng bọc như Herpes và HIV [ 100 – 102]. Trong trường hợp vi rút, hoạt động ngăn chặn thụ thể ngăn cản sự xâm nhập của tế bào vi rút và cũng có thể ức chế sự nhân lên của vi rút và sự hình thành hợp bào (tế bào khổng lồ). Những mặt hạn chế của việc sử dụng Fucoidan như một chất phân phối qua đường miệng vẫn là những mặt có khả dụng sinh học. Tuy nhiên, các tác nhân gây bệnh có thể nhắm mục tiêu từ lòng ruột, chẳng hạn như vi rút được chứa trong các cấu trúc miễn dịch của ruột, có thể được nhắm mục tiêu đặc biệt tốt bởi Fucoidan đường uống. Như các ví dụ sau đây minh họa, uống thuốc có tác dụng bảo vệ chống lại sự lây nhiễm vi rút.
Dịch cúm đã trở thành vấn đề thời sự trong những năm gần đây với sự bùng phát của Cúm A gây ra mối lo ngại lớn trên toàn cầu. Các liệu pháp hiện tại có thể trở nên vô dụng khi sức đề kháng phát triển. Một số nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu tác dụng ức chế của các phân đoạn fucoidan trên các chủng cúm lâm sàng [ 103 ] và para-influenza [ 104 ] trong ống nghiệm. Undaria pinnatifida có tác dụng ức chế rõ rệt đối với vi rút cúm A H1N1 gần đây với một nửa nồng độ ức chế hiệu quả tối đa ở mức dưới 1 mcg / mL [ 44 ]. Đáng chú ý, những tác dụng này cũng có thể được nhìn thấy trong cơ thể với Fucoidan được phân phối bằng đường uống. Hayashi đã báo cáo dữ liệu mô hình chuột, trong đó 5 mg mỗi ngày được cung cấp qua đường uống Undaria pinnatifidaFucoidan ức chế mạnh sự lây nhiễm cúm A [ 44 ]. Nó có tác dụng hiệp đồng rõ rệt với oseltamivir, một chất ức chế neuraminidase có hiệu quả trong điều trị cúm. Ngay cả khi là một tác nhân duy nhất, Fucoidan có thể làm giảm đáng kể hiệu giá vi rút trong phổi của những con chuột bị nhiễm bệnh. Tại thời điểm viết bài, không có nghiên cứu lâm sàng nào về bệnh Cúm sử dụng Fucoidan được báo cáo trong các tài liệu hiện có.
Nhiễm trùng herpes có thể gây suy nhược và tái phát. Cần có cả chiến lược điều trị và phòng ngừa cho cả Herpes 1 và 2. Trong một loạt nghiên cứu trường hợp lâm sàng nhỏ, sự tái hoạt động của Herpes bị ức chế bằng cách ăn một chế phẩm Undaria pinnatifida giàu fucoidan [ 105 ]. Undaria pinnatifida fucoidan được chứng minh là một chất ức chế hiệu quả cao đối với các chủng Herpes lâm sàng xâm nhập vào tế bào trong môi trường nuôi cấy [ 102 , 106 ] ở nồng độ microgram. Điều thú vị là, các vết bẩn kháng lại liệu pháp điều trị bằng thuốc thông thường, acyclovir, cũng bị ức chế tốt như nhau. Hayashi đã thiết lập rằng tác dụng ức chế của fucoidan được chuyển sang thiết lập in vivo trên mô hình chuột [ 101]. Trong nghiên cứu của mình, Undaria pinnatifida fucoidan được phân phối bằng đường uống có tác dụng bảo vệ thông qua việc ức chế trực tiếp sự nhân lên của virus và kích thích các chức năng phòng vệ miễn dịch bẩm sinh và thích ứng. Uống Fucoidan 5 mg / ngày mỗi 8 giờ (ba lần mỗi ngày) từ 1 tuần trước khi tiêm vi rút đến 1 tuần sau khi tiêm (tiền xử lý), hoặc trong 1 tuần sau khi tiêm vi rút đã bảo vệ chuột khỏi bị nhiễm HSV-1 và tăng cường hoạt động của tế bào T gây độc tế bào. Hoạt động của tế bào NK đã được cải thiện ở những con chuột bị ức chế miễn dịch nhiễm HSV-1. Việc sản xuất các kháng thể trung hòa ở những con chuột được cấy HSV-1 đã được thúc đẩy đáng kể bằng cách uống Fucoidan trong 3 tuần.
Vi rút sốt xuất huyết là một bệnh truyền nhiễm do vi rút gây suy nhược do muỗi truyền. Đôi khi được gọi là ‘sốt nứt xương’ vì các tác động gây đau khớp, nó có bốn dạng phụ khác nhau. Sự lây nhiễm của một loại không mang lại sự bảo vệ khỏi sự lây nhiễm của một loại khác. Không có phương pháp điều trị bệnh sốt xuất huyết nào ngoài giảm đau và điều dưỡng tốt. Fucoidan từ Cladosiphon đã được chứng minh là có khả năng ức chế bệnh sốt xuất huyết loại 2 trong ống nghiệm [ 107 ]. Với hiệu quả của fucoidan dạng uống trong việc ức chế Herpes, có thể có tiềm năng trong việc nghiên cứu sâu hơn về tác dụng ức chế của fucoidan đối với bệnh sốt xuất huyết. Tại thời điểm viết bài, không có nghiên cứu lâm sàng nào về bệnh sốt xuất huyết sử dụng Fucoidan được báo cáo trong tài liệu.
6,9. Virus: HTLV1
Trong “lần đầu tiên” lâm sàng vào năm nay, Araya đã trình bày dữ liệu về Fucoidan được phân phối bằng đường uống để điều trị cho các đối tượng Nhật Bản bị nhiễm vi rút bạch huyết Human T type-1 (HTLV-1) [ 34 ]. Virus retrovirus ở người này gây ra bệnh lý tủy liên kết HTLV-1 / bệnh liệt cứng nhiệt đới (HAM / TSP) và cũng là nguyên nhân gây ra bệnh bạch cầu tế bào T trưởng thành ở một số ít đối tượng bị nhiễm bệnh. Tải lượng vi rút cao hơn ở những người nhiễm HTLV-1 làm tăng nguy cơ phát triển và tiến triển lâm sàng của HAM / TSP và tình trạng khó chịu và ngày càng tàn phế. Các nghiên cứu trong ống nghiệm của các nhà nghiên cứu Nhật Bản và Brazil đã chỉ ra rằng fucoidan từ Cladosiphon okamuranus , và fucoidan có chứa chiết xuất nước từ Sargassum vulgare vàLaminaria abysslis có hiệu quả trong việc ức chế sự lây nhiễm virus HTLV-1 trong nuôi cấy tế bào [ 108 , 109 ]. Mặc dù các chất chiết xuất không gây độc một cách chọn lọc đối với các tế bào bị nhiễm, sự hình thành hợp bào và do đó sự chuyển giao tế bào sang tế bào của vi rút đã bị ức chế. Trong nghiên cứu năm 2011 của Araya, tác dụng ức chế in vitro của Fucoidan đối với sự lây nhiễm HTLV-1 từ tế bào này sang tế bào khác đã được xác nhận bằng cách sử dụng các xét nghiệm tế bào phóng viên luciferase.
Trong thử nghiệm nhãn mở của Araya, 13 bệnh nhân bị HAM / TSP được điều trị với 6 g fucoidan có nguồn gốc Cladosiphon okamuranus tương đối nguyên chất (85%) hàng ngày trong vòng 6-13 tháng. Tải lượng DNA tiền vi rút HTLV-1 được đo và thấy giảm trung bình 42,4% trong thời gian thử nghiệm. Thật thú vị, có sự khác biệt trong các đối tượng thử nghiệm với một số đạt được mức giảm nhiều hơn. Araya cũng đo chức năng tế bào miễn dịch, vì các fucoidan được biết là có tác dụng điều chỉnh chức năng miễn dịch ở động vật khác [ 38 – 40 , 53 ] và các nghiên cứu lâm sàng [ 33 , 53]. Tần suất của tế bào T CD8 (+) đặc hiệu HTLV-1, tế bào giết tự nhiên, tế bào T giết tự nhiên bất biến và tế bào đuôi gai trong máu ngoại vi đã được phân tích nhưng không cho thấy những thay đổi đáng kể. Điều này trái ngược với nghiên cứu trong đó lượng fucoidan đã làm thay đổi các thông số miễn dịch [ 33 , 40 ]. Trong nghiên cứu lâm sàng này, có những tác dụng phụ nhẹ. Trong quá trình điều trị, bốn bệnh nhân bị HAM / TSP bị tiêu chảy, tình trạng này được cải thiện ngay sau khi ngừng sử dụng Fucoidan.
6.10. Leishmaniasis
Leishmaniasis là một loại ký sinh trùng đơn bào lây lan qua vết cắn của ruồi cát. Hiện có khoảng 12 triệu người được cho là đang bị nhiễm bệnh, ước tính khoảng 1–2 triệu trường hợp mắc mới hàng năm [ 110 ]. Có nhiều loại bệnh leishmaniasis khác nhau, hầu hết lây từ động vật sang người, nhưng một số loài cũng lây giữa người. Bệnh leishmaniasis biểu hiện phổ biến nhất là một bệnh ngoài da gây loét nhưng cũng có thể lây lan đến các cơ quan, một tình trạng được gọi là “bệnh leishmaniasis nội tạng” và có thể gây tử vong. Không có thuốc chủng ngừa bệnh leishmaniasis và một phương pháp điều trị cũ hơn, natri antimon gluconat, không còn hiệu quả ở Ấn Độ.
Vào năm 2011, Kar đã công bố nghiên cứu trong đó Fucoidan được sử dụng trên mô hình chuột để điều trị bệnh Leishmaniasis [ 111]. Trong khi các tác giả thận trọng về việc ngoại suy công trình của họ đối với con người và các loại bệnh leishmaniasis khác, tiềm năng cho một loại thuốc hỗ trợ hoặc thậm chí một liệu pháp duy nhất là rất mạnh. Dữ liệu của họ cho thấy tác dụng ức chế sự nhân lên của amastigote (một phần trong vòng đời của bệnh leishmaniasis) trong đại thực bào. Đã loại bỏ hoàn toàn gánh nặng ký sinh trùng ở gan và lá lách ở mức 200 mg / kg / ngày được dùng đường uống, 3 lần mỗi tuần, trên mô hình chuột kéo dài 6 tuần của cả dòng nhạy cảm với antimon và kháng kháng sinh. Họ ghi nhận việc chuyển đổi chế độ bảo vệ miễn dịch từ chế độ Th2 sang Th1 và tăng sản xuất superoxide và NO của tế bào lách. IL-10 và TGF beta, cả hai cytokine ức chế Th1, được phát hiện là có khả năng điều chỉnh giảm sâu ở những con chuột được điều trị bằng Fucoidan bị nhiễm bệnh. TGF beta, được phát hiện là giảm đáng kể ở những con chuột được điều trị bằng Fucoidan. Quan trọng nhất,
Tại thời điểm viết bài, không có nghiên cứu lâm sàng nào được công bố liên quan đến nhiễm trùng fucoidan và bệnh leishmaniasis.
6.11. Bệnh sốt rét
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2008, có 247 triệu trường hợp mắc bệnh sốt rét và gần một triệu trường hợp tử vong. Sốt rét do bốn loại ký sinh trùng Plasmodium khác nhau gây ra . Ký sinh trùng lây lan sang người qua vết đốt của muỗi Anopheles bị nhiễm bệnh , được gọi là “vật trung gian truyền bệnh sốt rét”. Nếu tình trạng kháng với các loại thuốc artemisinin hiệu quả hiện tại phát triển và lan rộng ra các khu vực địa lý rộng lớn khác, như đã xảy ra trước đây với chloroquine và sulfacoxine-pyrimethamine, hậu quả sức khỏe cộng đồng có thể rất tồi tệ, vì sẽ không có thuốc điều trị sốt rét thay thế trong tương lai gần.
Ký sinh trùng sốt rét ( Plasmodium merozoites) xâm nhập vào dòng máu và sau đó phải thâm nhập vào tế bào hồng cầu (hồng cầu) để nhân lên. Tế bào vỡ ra và chu kỳ bắt đầu lại. Sốt rét dẫn đến thiếu máu trầm trọng và sốt theo chu kỳ khi ký sinh trùng hoạt động. Fucoidan là một trong những tác nhân cho thấy một số hứa hẹn như một tác nhân ức chế sự lây nhiễm Plasmodium trong ống nghiệm và trên mô hình chuột [ 112 ]. Undaria pinnatifida fucoidan ức chế đáng kể sự xâm nhập của hồng cầu bởi Plasmodium falciparum merozoites. Thử nghiệm ức chế kéo dài bốn ngày trên những con chuột bị nhiễm Plasmodium berghei (một hệ thống mô hình) với Fucoidan đã dẫn đến 37% hiệu quả ức chếso với nhóm chứng và sự chậm trễ đáng kể trong số ca tử vong do thiếu máu.
Tại thời điểm viết bài, không có nghiên cứu lâm sàng nào về bệnh sốt rét sử dụng Fucoidan được báo cáo trong các tài liệu hiện có.
6.12. Prion
Bệnh não xốp có thể truyền nhiễm hoặc bệnh “prion” là một nhóm các rối loạn thoái hóa thần kinh gây tử vong. Chúng bao gồm các bệnh ở người “Kuru” và bệnh Creutzfeldt-Jakob (CJD), bệnh cào cào ở cừu và bệnh não xốp ở bò ảnh hưởng đến gia súc. ‘Kuru’ xảy ra giữa những người từ New Guinea thực hành một hình thức ăn thịt đồng loại, trong đó họ ăn não của người chết như một phần của nghi lễ tang lễ. Thực hành này đã dừng lại vào năm 1960, nhưng các trường hợp Kuru đã xảy ra trong nhiều thập kỷ do thời gian ủ bệnh lâu [ 113 , 114]. Những bệnh này được đặc trưng bởi sự tích tụ của một protein prion gấp khúc bất thường trong hệ thần kinh trung ương và hệ thống lưới lympho. Gần đây, biến thể CJD đã trở thành mối quan tâm lớn về sức khỏe ở châu Âu sau khi thịt bị nhiễm bệnh xâm nhập vào chuỗi thực phẩm.
Prion vẫn là một thách thức điều trị khi không có liệu pháp điều trị bằng thuốc phòng ngừa hoặc chữa bệnh đã được phê duyệt. Doh-Ura và các đồng nghiệp đã kiểm tra tác động của việc uống fucoidan đối với nhiễm trùng prion trên mô hình chuột và minh họa rằng việc uống fucoidan trước đó có thể ức chế sự phát triển của bệnh [ 115]. Fucoidan được sử dụng bằng miệng cho chuột sau khi cấy vào ruột đã làm chậm sự khởi phát của bệnh trong khoảng một nửa thời gian ủ bệnh đối chứng. Tuy nhiên, Fucoidan được sử dụng trước khi cấy vào ruột không ảnh hưởng đến thời gian ủ bệnh. Vì fucoidan là các phân tử lớn, hàng rào máu não không có khả năng cho phép đi vào hệ thống thần kinh trung ương. Có lẽ nhiều khả năng Fucoidan phát huy tác dụng thông qua hệ thống miễn dịch đường ruột. Cho đến nay, không có nghiên cứu lâm sàng nào được báo cáo với Fucoidan để đánh giá tác dụng đối với nhiễm trùng prion.
6.13. Helicobacter và loét dạ dày
Một nghiên cứu lâm sàng đáng khích lệ gần đây đã được thực hiện ở Indonesia để xác định hiệu quả của liệu pháp Fucoidan đối với những bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi Helicobacter pylori [ 116 ]. Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi bằng chứng in vitro và in vivo đáng kể cho thấy rằng fucoidan có tác dụng ức chế nhiễm trùng Helicobacter , phần lớn bằng cách ức chế sự bám dính vào bề mặt niêm mạc [ 117 ]. Nghiên cứu của Juffrie bao gồm những bệnh nhân bị đau bụng hoặc khó tiêu ít nhất 8 năm. Sau khi nội soi xác nhận tình trạng loét và nhiễm vi khuẩn Helicobacter , các đối tượng đã dùng giả dược hoặc 100 mg Cladosiphon okamuranusFucoidan hàng ngày trong ba tuần trước khi trải qua một cuộc nội soi khác bao gồm sinh thiết. Các bệnh nhân được điều trị bằng Fucoidan đã giảm các triệu chứng như đau và nôn sau 5 ngày tham gia nghiên cứu. Tại quá trình sinh thiết, phần lớn bệnh nhân bị loét nặng được dùng Fucoidan 100 mg mỗi ngày trong ba tuần đã chuyển sang giai đoạn lành hoặc giai đoạn liền sẹo trong khi chỉ có 37,5% bệnh nhân dùng giả dược chuyển sang giai đoạn lành.
Trên các mô hình động vật, aspirin gây loét (một mô hình cho bệnh loét dạ dày) có thể được ức chế bởi Fucus vesiculosis fucoidan phân phối bằng đường uống với liều lượng 20 mg / kg thể trọng / ngày trong hai tuần [ 118 ]. Điều trị bằng aspirin tạo ra sự gia tăng mong đợi của các transaminase aspartate và alanin (AST và ALT) và các cytokine huyết thanh IL6, IL10 và IFN gamma. Fucoidan đường uống cho thấy khả năng bảo vệ đáng kể ( p <0,05) chống lại vết loét bằng cách ức chế sự thay đổi cấp tính của AST, ALT, cytokine và glycogen dạ dày. Tuy nhiên, INF-gamma huyết thanh trầm trọng hơn đã được quan sát thấy ở nhóm được điều trị trước bằng fucoidan [ 118 ].
6.14. Bệnh thận và tăng oxy niệu
Fucoidan có thể hoạt động theo một số cách để bảo vệ khỏi tổn thương thận. Đối với các cơ quan khác trong giai đoạn sau thiếu máu cục bộ, tổn thương do tái tưới máu có thể được bảo vệ bằng cách sử dụng Fucus vesiculosis fucoidan với liều 10 mg / kg tiêm tĩnh mạch trên cơ sở khả năng ức chế P selectin [ 119 ]. Zhang đã chứng minh tác dụng của Laminaria japonica fucoidan bằng đường uống lên đến 200 mg / kg thể trọng trong việc ngăn ngừa suy thận mãn tính hoặc viêm thận Heymann (một tình trạng tự miễn dịch) trên mô hình chuột [ 120 , 121 ].
Nồng độ oxalat tăng cao trong huyết thanh thường liên quan đến sưng khớp đau được gọi là bệnh gút. Nồng độ oxalat tăng cao cũng là nguyên nhân gây ra sỏi thận. Năm 2007, Veena đã đánh giá Fucus vesiculosis fucoidan ở chuột Wistar, trong đó chứng tăng oxy niệu và lắng đọng canxi oxalat trong thận do ethylene glycol gây ra [ 122 ]. Liều hàng ngày 5mg / kg thể trọng được tiêm dưới da trong 28 ngày, sau đó các mô được thu hoạch để đánh giá. Fucoidan đã bình thường hóa thành công những rối loạn liên quan đến tăng oxy niệu. Josephine, từ cùng một nhóm nghiên cứu, đã công bố nghiên cứu bổ sung, trong đó đánh giá tác động của fucoidan đối với độc tính trên thận do Cyclosporine A (CsA) gây ra [ 123]. Liều 5 mg / kg trọng lượng cơ thể fucoidan phân lập từ Sargassum wightii hoặc Fucus vesiculosis được tiêm dưới da trong 21 ngày. Cả hai loại fucoidan đều bảo vệ chức năng ti thể và các biện pháp sinh học khác ở cùng một mức độ. Lý do đằng sau mô hình là việc sử dụng cyclosporine trong điều trị. Cyclosporine là một chất ức chế miễn dịch hữu ích trong quá trình cấy ghép nhưng độc tính trên thận của nó làm giảm mức độ sử dụng của nó.
6.15. Snake Envenomation
Rắn cắn là một vấn đề bị lãng quên nghiêm trọng ảnh hưởng đến Trung và Nam Mỹ, một số khu vực của châu Á và châu Phi [ 124 – 126 ]. Liệu pháp hiện tại cho vết rắn cắn bao gồm thuốc chống nọc độc. Những thứ này có thể tốn kém, có thời hạn sử dụng hạn chế và cũng cần được bảo quản cẩn thận. Chúng không phải lúc nào cũng có sẵn ở những khu vực cần thiết nhất.
Nọc rắn là một hỗn hợp phức tạp có thể gây sưng tấy, chảy máu, phồng rộp và cuối cùng là hoại tử da và cơ. Ở những vết cắn của rắn Nam Mỹ thường xảy ra, những tác động này là do hai thành phần chính của nọc độc gây ra; metalloproteinase phụ thuộc kẽm và phospholipase độc tố (PLA2). Các metalloprotease làm suy giảm các thành phần nền ngoại bào, chẳng hạn như các collagens tạo nên cấu trúc vi mạch. Các phospholipase gây độc cho cơ phá vỡ màng sinh chất của tế bào cơ xương. Một phản ứng viêm lớn xảy ra sau đó với sự xâm nhập của bạch cầu. Sưng sau đó có thể gây hạn chế lưu lượng máu, thiếu máu cục bộ và tổn thương mô thêm.
Fucoidan từ Ascophyllum gật đầu đã được điều tra bởi các nhóm nghiên cứu người Costa Rica và được phát hiện là một chất ức chế hiệu quả các biến thể PLA2 có trong nọc của rắn crotalid [ 124 – 127 ]. Nọc độc của rắn Crotalid làm tổn thương hệ bạch huyết thông qua enzym PLA2. Mora đã chứng minh rằng tác dụng ức chế PLA2 mạnh mẽ của fucoidan có thể loại bỏ hoàn toàn tác dụng gây độc của nọc độc nếu được ủ trước với nó trước khi tiêm trên mô hình chuột, nhưng nó không thay đổi tác dụng xuất huyết của nọc độc [ 125 ]. Angulo đã chứng minh rằng fucoidan tạo phức với PLA2 của nọc rắn và bất hoạt chúng [ 127 ].
Trong nghiên cứu gần đây nhất của Rucavado [ 124 ], tác dụng của fucoidan kết hợp với batimastat (một chất ức chế peptidomimetic hydroxamate metalloproteinase được biết là ức chế hoạt động của nọc độc crotalid) đã được nghiên cứu trên mô hình chuột. Fucoidan làm giảm sự hiện diện của các protein nội bào trong dịch tiết, trong khi batimastat làm giảm số lượng các protein nền ngoại bào có liên quan. Sự kết hợp của các chất ức chế này dẫn đến việc loại bỏ các tác động bệnh lý liên quan nhất của nọc độc này.
Thật kỳ lạ, việc giảm trọng lượng phân tử của fucoidan về mặt lý thuyết để tăng cường sinh khả dụng không có hiệu quả trong việc ức chế nọc rắn [ 42 ]. Một nghiên cứu đã đánh giá khả năng của hai phân đoạn của Ascophyllum nútFucoidan để ngăn ngừa hoại tử cơ khi được sử dụng nhanh chóng sau khi tiêm myotoxin tinh khiết hoặc nọc độc thô trên mô hình chuột. Hai chế phẩm được tiêu chuẩn hóa để có cùng hiệu lực trung hòa. Sử dụng cục bộ vào cơ của một trong hai phần sau khi tiêm myotoxin đã ngăn ngừa được gần 50% hoại tử cơ. Tuy nhiên, khi được thử nghiệm chống lại nọc độc thô (chứa một số đồng dạng myotoxin), việc tiêm vào cơ có phần trọng lượng phân tử cao hơn đã ức chế được gần 50% tình trạng nhiễm trùng cơ so với nhóm không được điều trị. Ngược lại với mong đợi, việc sử dụng các mảnh fucoidan nhỏ hơn sẽ giảm hơn là tăng đáp ứng điều trị. Điều này có thể liên quan đến một đặc điểm cấu trúc cụ thể trong phần có trọng lượng phân tử cao mà không có trong phần có trọng lượng phân tử thấp hơn.
Năm 2003, Vasanthi đã mô tả sự ức chế thành công nọc độc của rắn hổ mang trên mô hình chuột bằng cách tiêm vào màng bụng một chất chiết xuất từ Padina boergensii [ 128 ]. Tuy nhiên, chiết xuất được điều chế bằng metanol, và không rõ liệu fucoidan có phải là thành phần chính của chiết xuất hay không vì fucoidan có độ hòa tan hạn chế trong rượu.
Tính ổn định tương đối của các phân đoạn fucoidan so với các antivenoms được sản xuất thông thường có nghĩa là không cần bảo quản lạnh và có thể dự đoán được thời hạn sử dụng lâu dài. Sự phát triển của Fucoidan cho ứng dụng này có thể có khả năng hạn chế các biến chứng và đau đớn do rắn cắn một cách hiệu quả và thực tế.
7. KẾT LUẬN
Bài đánh giá này bao gồm một số nghiên cứu gần đây hơn về hoạt tính sinh học và thảo luận về các liệu pháp tiềm năng từ Fucoidan. Lĩnh vực nghiên cứu đã tăng lên trong thập kỷ qua và bắt đầu tạo ra các nghiên cứu lâm sàng. Đánh giá này đã mở rộng các ứng dụng tiềm năng đa dạng như nhiễm trùng prion và viêm xương khớp. Việc phát triển các phân đoạn fucoidan đòi hỏi sự chú ý đến nguồn gốc và các đặc tính cần thiết của phân đoạn, ngoài việc xem xét tuyến đường vận chuyển. Cung cấp bằng miệng có vẻ đầy hứa hẹn, với nghiên cứu chỉ ra tiềm năng điều trị trong các lĩnh vực khác nhau. Tăng sinh khả dụng có thể là quan trọng đối với Fucoidan được phân phối bằng đường uống.
8. THAM KHẢO
1. Kiple KF, Ornelas KC. Các chất bổ sung rau quan trọng. Trong: Beck SV, chủ biên. Lịch sử Thế giới về Thực phẩm của Cambridge. Tập 1. Nhà xuất bản Đại học Cambridge; Cambridge, Vương quốc Anh: 2000. trang 231–249. [ Google Scholar ]
2. Berteau O, Mulloy B. Fucan sunfat, quan điểm mới: Cấu trúc, chức năng và đặc tính sinh học của fucan sunfat và tổng quan về các enzym hoạt động đối với lớp polysaccharide này. Glycobiolog. Năm 2003; 13 : 29–40. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
3. Kylin H. Về hóa sinh của rong biển. Z. Physiol của Hoppe-Seyler. Chèm năm 1913; 83 : 171-197. [ Google Scholar ]
4. Bird GM, Haas P. Về bản chất của các thành phần cấu tạo thành tế bào của Laminaria spp. Axit mannuronic. Hóa sinh. J. 1931; 25 : 403–411. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
5. Percival EGV, Ross AG. Fucôin. Phần I. Quá trình phân lập và tinh chế fucoidan từ rong biển nâu. J. Chèm. Soc. Năm 1950; 145 : 717–720. [ Google Scholar ]
6. Black WAP, Dewar ET, Woodward FN. Sản xuất hóa chất tảo. IV. Quy mô phòng thí nghiệm phân lập fucoidan từ tảo biển nâu. J. Khoa học. Nông sản thực phẩm. Năm 1952; 3 : 122–129. [ Google Scholar ]
7. Bairstow S, McKee J, Nordhaus M, Johnson R. Xác định một phương pháp microplate đơn giản và nhạy cảm để phát hiện chondroitin sulfate quá lưu huỳnh trong các sản phẩm heparin. Hậu môn. Hóa sinh. Năm 2009; 388 : 317–321. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
8. Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ, FDA. Trung tâm Nghiên cứu và Đánh giá Thuốc (CDER), Hướng dẫn cho các Sản phẩm Thuốc từ Thực vật Công nghiệp. 2004. [truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2011]. Có sẵn trực tuyến: http://www.fda.gov/cder/guidance/index.htm .
9. Fitton JH, Irhimeh MR, Teas J. Marine Algae and Polysaccharides with The Treatment Ứng dụng. Trong: Barrow C, Shahidi F, biên tập viên. Marine Nutraceuticals và Thực phẩm chức năng. CRC Press, Taylor & Francis Group; Boca Raton, FL, Hoa Kỳ: 2008. Trang 345–366. [ Google Scholar ]
10. Pomin VH, Mourao PA. Cấu trúc, sinh học, sự tiến hóa và tầm quan trọng về mặt y học của các hạt fucan và galactan đã được sulfat hóa. Glycobiology. Năm 2008; 18 : 1016–1027. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
11. Li B, Lu F, Wei X, Zhao R. Fucoidan: Cấu trúc và hoạt tính sinh học. Các phân tử. Năm 2008; 13 : 1671–1695. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
12. Nishino T, Nishioka C, Ura H, Nagumo T. Phân lập và mô tả một phần đặc tính của một loại đường amino mới fucan sulfate từ Fucus vesiculosus fucoidan thương mại. Carbohydr. Res. Năm 1994; 255 : 213–224. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
13. Michel C, Lahaye M, Bonnet C, Mabeau S, Barry JL. Lên men trong ống nghiệm bởi vi khuẩn phân người tổng số và chất xơ tinh khiết từ tảo biển nâu. Br. J. Nutr. Năm 1996; 75 : 263–280. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
14. Yamada Y, Miyoshi T, Tanada S, Imaki M. Khả năng tiêu hóa và khả năng cung cấp năng lượng của rong biển Wakame ( Undaria pinnatifida ) trong tiếng Nhật. Nippon Eiseigaku Zasshi. 1991; 46 : 788–794. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
15. Lynch MB, Sweeney T, Callan JJ, O’Sullivan JT, O’Doherty JV. Ảnh hưởng của laminarin có nguồn gốc từ Laminaria và fucoidan đối với khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng, sử dụng nitơ, hệ vi sinh đường ruột và nồng độ axit béo dễ bay hơi ở lợn. J. Khoa học. Nông sản thực phẩm. Năm 2010; 90 : 430–437. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
16. O’Sullivan L, Murphy B, McLoughlin P, Duggan P, Lawlor PG, Hughes H, Gardiner GE. Prebiotics từ tảo biển cho các ứng dụng sức khỏe con người và động vật. Mar. Ma túy. Năm 2010; 8 : 2038–2064. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
17. Barthe L, Woodley J, Lavit M, Przybylski C, Philibert C, Houin G. Suy thoái và hấp thu chondroitin sulfat ở ruột in vitro , một loại thuốc glycosaminoglycan. Arzneimittelforschung. Năm 2004; 54 : 286–292. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
18. Elsenhans B, Caspary WF. Những thay đổi khác biệt trong bài tiết nước tiểu của hai chất đánh dấu polyethylene glycol dùng đường uống (PEG 900 và PEG 4000) ở chuột sau khi cho ăn các chất tạo thành carbohydrate khác nhau. J. Nutr. Năm 1989; 119 : 380–387. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
19. Irhimeh MR, Fitton JH, Lowenthal RM, Kongtawelert P. Một phương pháp định lượng để phát hiện fucoidan trong huyết tương người bằng cách sử dụng một kháng thể mới. Phương pháp Tìm Exp. Clin. Pharmacol. Năm 2005; 27 : 705–710. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
20. Tokita Y, Nakajima K, Mochida H, Iha M, Nagamine T. Phát triển kháng thể đặc hiệu với fucoidan và đo lượng fucoidan trong huyết thanh và nước tiểu bằng phương pháp ELISA sandwich. Biosci. Công nghệ sinh học. Hóa sinh. Năm 2010; 74 : 350–357. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
21. Nakazato K, Takada H, Iha M, Nagamine T. Làm suy giảm quá trình xơ hóa gan do N-nitrosodiethylamine gây ra bởi fucoidan trọng lượng phân tử cao có nguồn gốc từ Cladosiphon okamuranus . J. Gastroenterol. Gan mật. Năm 2010; 25 : 1692–1701. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
22. Guimaraes MA, Mourao PA. Sự bài tiết qua nước tiểu của các polysaccharid sulfat được sử dụng cho chuột Wistar cho thấy tính thấm của thận đối với các polyme này dựa trên kích thước phân tử. Biochim. Lý sinh. Acta. Năm 1997; 1335 : 161–172. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
23. Mizuno M, Nishitani Y, Tanoue T, Matoba Y, Ojima T, Hashimoto T, Kanazawa K. Định lượng và bản địa hóa fucoidan ở Laminaria japonica bằng cách sử dụng một loại kháng thể mới. Biosci. Công nghệ sinh học. Hóa sinh. Năm 2009; 73 : 335–338. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
24. Eardley DD, Sutton C, Hempel WM, Reed DC, Ebeling AW. Các kháng thể đơn dòng đặc hiệu cho các polysaccharid đã sulfat hóa trên bề mặt của Macrocystis pyrifera . J. Phycol. Năm 1990; 26 : 54–62. [ Google Scholar ]
25. Chung HJ, Jeun J, Houng SJ, Jun HJ, Kweon DK, Lee SJ. Đánh giá độc tính của fucoidan từ Undaria pinnatifida in vitro và in vivo . Phytother. Res. Năm 2010; 24 : 1078–1083. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
26. Li N, Zhang Q, Song J. Đánh giá độc tính của fucoidan chiết xuất từ Laminaria japonica ở chuột wistar. Thực phẩm Chem. Toxicol. Năm 2005; 43 : 421–426. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
27. Myers SP, O’Connor J, Fitton JH, Brooks L, Rolfe M, Connellan P, Wohlmuth H, Cheras PA, Morris C. Một nghiên cứu nhãn mở kết hợp giai đoạn I và II về tác dụng của phức hợp dinh dưỡng chiết xuất rong biển đối với viêm xương khớp. Sinh học. Năm 2010; 4 : 33–44. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
28. Irhimeh MR, Fitton JH, Lowenthal RM. Uống Fucoidan làm tăng sự biểu hiện của CXCR4 trên các tế bào CD34 + của con người. Hết hạn. Tan máu. Năm 2007; 35 : 989–994. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
29. Irhimeh MR, Fitton JH, Lowenthal RM. Thí điểm nghiên cứu lâm sàng để đánh giá hoạt tính chống đông máu của Fucoidan. Đông máu. Tiêu sợi huyết. Năm 2009; 20 : 607–610. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
30. Kim KJ, Lee OH, Lee HH, Lee BY. Một nghiên cứu về độc tính liều uống lặp đi lặp lại trong 4 tuần của Fucoidan từ loài Sporophyll của Undaria pinnatifida ở chuột Sprague-Dawley. Độc chất học. Năm 2009; 267 : 154–158. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
31. Prasad S, Lillicrap D, Labelle A, Knappe S, Keller T, Burnett E, Powell S, Johnson KW. Hiệu quả và độ an toàn của ứng cử viên thuốc cầm máu loại mới, AV513, ở chó mắc bệnh ưa chảy máu A. Máu. Năm 2008; 111 : 672–679. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
32. Kim KJ, Lee OH, Lee BY. Các nghiên cứu về độc tính gen trên fucoidan từ nấm Sporophyll của Undaria pinnatifida . Thực phẩm Chem. Toxicol. Năm 2010; 48 : 1101–1104. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
33. Myers SP, O’Connor J, Fitton JH, Brooks L, Rolfe M, Connellan P, Wohlmuth H, Cheras PA, Morris C. Một nghiên cứu nhãn mở kết hợp giai đoạn I và II về tác dụng điều hòa miễn dịch của phức hợp dinh dưỡng chiết xuất rong biển . Sinh học. 2011; 5 : 45–60. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
34. Araya N, Takahashi K, Sato T, Nakamura T, Sawa C, Hasegawa D, Ando H, Aratani S, Yagishita N, Fujii R, et al. Liệu pháp Fucoidan làm giảm tải lượng vi rút ở những bệnh nhân mắc bệnh thần kinh liên quan đến vi rút T-bạch huyết ở người. Antivir. Họ. 2011; 16 : 89–98. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
35. Zhang J, Tiller C, Shen J, Wang C, Girouard GS, Dennis D, Barrow CJ, Miao M, Ewart HS. Đặc tính chống đái tháo đường của các phân đoạn làm giàu polysaccharide và polyphenolic từ rong nâu Ascophyllum nodosum. Có thể. J. Physiol. Pharmacol. Năm 2007; 85 : 1116–1123. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
36. Cumashi A, Ushakova NA, Preobrazhenskaya ME, D’Incecco A, Piccoli A, Totani L, Tinari N, Morozevich GE, Berman AE, Bilan MI, et al. Một nghiên cứu so sánh về các hoạt động chống viêm, chống đông máu, kháng sinh và chống kết dính của chín loại fucoidan khác nhau từ rong biển nâu. Glycobiology. Năm 2007; 17 : 541–552. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
37. Laubli H, Borsig L. Selectins thúc đẩy sự di căn của khối u. Semin. Biol ung thư. Năm 2010; 20 : 169–177. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
38. Maruyama H, Tamauchi H, Hashimoto M, Nakano T. Ức chế phản ứng miễn dịch Th2 của Mekabu fucoidan từ Undaria pinnatifida sporophylls. Int. Vòm. Dị ứng Immunol. Năm 2005; 137 : 289–294. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
39. Maruyama H, Tamauchi H, Hashimoto M, Nakano T. Hoạt động chống khối u và đáp ứng miễn dịch của Mekabu fucoidan chiết xuất từ bào tử nấm Undaria pinnatifida . Trong Vivo. Năm 2003; 17 : 245–249. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
40. Shimizu J, Wada-Funada U, Mano H, Matahira Y, Kawaguchi M, Wada M. Tỷ lệ tế bào T gây độc tế bào của chuột được tăng lên nhờ fucoidan trọng lượng phân tử cao chiết xuất từ Okinawa Mozuku ( Cladosiphon okamuranus ) J. Health Sci. Năm 2005; 51 : 394–397. [ Google Scholar ]
41. Park SB, Chun KR, Kim JK, Suk K, Jung YM, Lee WH. Tác động khác biệt của fucoidan có trọng lượng phân tử thấp và cao đối với mức độ nghiêm trọng của bệnh viêm khớp do collagen ở chuột. Phytother. Res. Năm 2010; 24 : 1384–1391. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
42. Azofeifa K, Angulo Y, Lomonte B. Khả năng của fucoidan trong việc ngăn ngừa hoại tử cơ do độc tố nọc rắn gây ra: So sánh các phân số trọng lượng phân tử cao và thấp. Chất độc. Năm 2008; 51 : 373–380. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
43. Yanase Y, Hiragun T, Uchida K, Ishii K, Oomizu S, Suzuki H, Mihara S, Iwamoto K, Matsuo H, Onishi N, Kameyoshi Y, Hide M. Tiêm Fucoidan vào phúc mạc ngăn chặn sự gia tăng IgE huyết tương do Nhạy cảm OVA. Hóa sinh. Lý sinh. Res. Commun. Năm 2009; 387 : 435–439. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
44. Hayashi T, Hayashi K, Kanekiyo K, Ohta Y, Lee JB. Các phân tử Glyco kháng virus đầy hứa hẹn từ một loại tảo ăn được. Trong: Torrence PF, chủ biên. Chống lại mối đe dọa của đại dịch cúm: Phương pháp tiếp cận khám phá thuốc. John Wiley & Các con trai; Hoboken, NJ, Hoa Kỳ: 2007. Trang 166–182. [ Google Scholar ]
45. Wynn TA. Cơ chế tế bào và phân tử của quá trình xơ hóa. J. Pathol. Năm 2008; 214 : 199–210. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
46. Preobrazhenskaya ME, Berman AE, Mikhailov VI, Ushakova NA, Mazurov AV, Semenov AV, Usov AI, Nifant’ev NE, Bovin NV. Fucoidan ức chế sự tuyển dụng bạch cầu trong mô hình viêm phúc mạc ở chuột và ngăn chặn sự tương tác của P-selectin với phối tử carbohydrate của nó. Hóa sinh. Mol Biol. Int. Năm 1997; 43 : 443–451. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
47. Kubes P, Payne D, Woodman RC. Cơ chế phân tử của sự tuyển dụng bạch cầu trong vi tuần hoàn gan sau thiếu máu cục bộ. Là. J. Physiol. Thuốc dạ dày. Thuốc bổ gan. Năm 2002; 283 : 139–147. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
48. Gassmann P, Kang ML, Mees ST, Haier J. Sự kết dính tế bào khối u in vivo trong vi mạch phổi được thực hiện qua trung gian độc quyền bởi tương tác tế bào nội mô khối u. Ung thư BMC. Năm 2010; 10 : 177. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
49. Frenette PS, Weiss L. Các glycans sulfat hóa gây huy động tế bào tiền thân tạo máu nhanh chóng: Bằng chứng cho các cơ chế phụ thuộc và độc lập với selectin. Máu. Năm 2000; 96 : 2460–2468. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
50. Mansson P, Zhang XW, Jeppsson B, Johnell O, Thorlacius H. Vai trò quan trọng của quá trình lăn phụ thuộc P-selectin trong sự kết dính bạch cầu do yếu tố alpha gây ra hoại tử khối u và sự tuyển dụng ngoại mạch in vivo . Naunyn Schmiedebergs Arch. Pharmacol. Năm 2000; 362 : 190–196. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
51. Tanaka K, Ito M, Kodama M, Tomita M, Kimura S, Hoyano M, Mitsuma W, Hirono S, Hanawa H, Aizawa Y. Polysaccharide fucoidan sulfat hóa chứng viêm cơ tim tự miễn thực nghiệm ở chuột. J. Cardiovasc. Pharmacol. Họ. 2011; 16 : 79–86. [ PubMed ] [ Google Scholar
52. Thomes P, Rajendran M, Pasanban B, Rengasamy R. Hoạt động bảo vệ tim mạch của Cladosiphon okamuranus fucoidan chống lại chứng nhồi máu cơ tim do isoproterenol gây ra ở chuột. Phytomedicine. Năm 2010; 18 : 52–57. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
53. Kim H, Moon C, Park EJ, Jee Y, Ahn M, Wie MB, Shin T. Cải thiện chứng viêm não tự miễn thực nghiệm ở chuột Lewis được điều trị bằng Fucoidan. Phytother. Res. Năm 2010; 24 : 399–403. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
54. Alwayn IP, Appel JZ, Goepfert C, Buhler L, Cooper DK, Robson SC. Ức chế kết tập tiểu cầu ở khỉ đầu chó: Tác động điều trị đối với việc cấy ghép xenotransplant. Xenotransplantation. Năm 2000; 7 : 247–257. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
55. Tissot B, Montdargent B, Chevolot L, Varenne A, Descroix S, Gareil P, Daniel R. Tương tác của fucoidan với các protein của con đường bổ sung cổ điển. Biochim. Lý sinh. Acta. Năm 2003; 1651 : 5–16. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
56. Charreau B, Blondin C, Boisson-Vidal C, Soulillou JP, Anegon I. Hiệu quả của fucan trong việc bảo vệ tế bào nội mô của heo chống lại sự kích hoạt và ly giải bổ thể bởi huyết thanh người. Cấy. Proc. Năm 1997; 29 : 889–890. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
57. Tissot B, Daniel R. Đặc tính sinh học của fucan sulfated: Hoạt tính ức chế mạnh của tảo fucoidan chống lại hệ thống khen ngợi của con người. Glycobiology. Năm 2003; 13 : 29G – 30G. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
58. Blondin C, Chaubet F, Nardella A, Sinquin C, Jozefonvicz J. Mối quan hệ giữa các đặc điểm hóa học và hoạt tính chống bổ sung của fucan. Vật liệu sinh học. Năm 1996; 17 : 597–603. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
59. Galebskaya LV, Ryumina EV, Bogomaz TA, Preobrazhenskaya ME. Cơ chế hoạt động của Fucoidan đối với cơ thể người. Biomeditsinskaya Khimiya. Năm 2003; 49 : 542–547. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
60. Clement MJ, Tissot B. Glycobiology. Năm 2010; 20 : 883–894. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
61. Thring TS, Hili P, Naughton DP. Các hoạt động chống collagenase, chống elastase và chống oxy hóa của chiết xuất từ 21 loại thực vật. BMC bổ sung. Altern. Med. Năm 2009; 9 giờ 27. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
62. Senni K, Gueniche F, Foucault-Bertaud A, Igondjo-Tchen S, Fioretti F, Colliec-Jouault S, Durand P, Guezennec J, Godeau G, Letourneur D. Fucoidan một polysaccharide sulfat hóa từ tảo nâu là một chất điều biến mạnh mẽ của phân giải protein mô liên kết. Vòm. Hóa sinh. Lý sinh. Năm 2006; 445 : 56–64. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
63. Tsuji N, Moriwaki S, Suzuki Y, Takema Y, Imokawa G. Vai trò của chất đàn hồi do nguyên bào sợi tiết ra trong sự hình thành nếp nhăn: Hàm ý thông qua việc ức chế chọn lọc hoạt động của elastase. Quang hóa. Photobiol. Năm 2001; 74 : 283–290. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
64. Moon HJ, Lee SH, Ku MJ, Yu BC, Jeon MJ, Jeong SH, Stonik VA, Zvyagintseva TN, Ermakova SP, Lee YH. Fucoidan ức chế sự biểu hiện của promoter MMP-1 do tia UVB gây ra và điều chỉnh giảm tổng hợp procollagen loại I trong nguyên bào sợi da người. Eur. J. Dermatol. Năm 2009; 19 : 129–134. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
65. Fujimura T, Tsukahara K, Moriwaki S, Kitahara T, Sano T, Takema Y. Điều trị da người bằng chiết xuất Fucus vesiculosus làm thay đổi độ dày và tính chất cơ học của nó. J. Thẩm mỹ. Khoa học. Năm 2002; 53 : 1–9. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
66. Hlawaty H, Suffee N, Sutton A, Oudar O, Haddad O, Ollivier V, Laguillier-Morizot C, Gattegno L, Letourneur D, Charnaux N. Fucoidan trọng lượng phân tử thấp ngăn ngừa tăng sản nội tiết ở chuột bị thương động mạch chủ ngực thông qua điều chế biểu thức ma trận metalloproteinase-2. Hóa sinh. Pharmacol. 2011; 81 : 233–243. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
67. Deux JF, Anne MP, Le Blanche AF, Feldman LJ, Colliec-Jouault S, Bree F, Boudghène F, Michel JB, Letourneur D. Fucoidan có trọng lượng phân tử thấp ngăn ngừa tăng sản thần kinh ở thỏ trong mô hình tái tạo trong stent động mạch chậu. Arterioscler. Thromb. Vasc. Biol. Năm 2002; 22 : 1604–1609. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
68. Goldring MB, Goldring SR. Sụn khớp và xương dưới sụn trong cơ chế bệnh sinh của thoái hóa khớp. Ann. NY Acad. Khoa học. Năm 2010; 1192 : 230–237. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
[PubMed] 69. Cunha TM, Verri WA, Jr, Schivo IR, Napimoga MH, Stop CA, Poole S, Teixeira MM, Ferreira SH, Cunha FQ. Vai trò quan trọng của bạch cầu trung tính trong sự phát triển của quá trình thụ cảm viêm cơ học. J. Leukoc. Biol. Năm 2008; 83 : 824–832. [ PubMed ] [ Google Scholar
70. McNamee KE, Burleigh A, Gompels LL, Feldmann M, Allen SJ, Williams RO, Dawbarn D, Vincent TL, Inglis JJ. Điều trị thoái hóa khớp gối bằng TrkAd5 cho thấy vai trò quan trọng của yếu tố tăng trưởng thần kinh trong chứng đau khớp không do viêm. Đau đớn. Năm 2010; 149 : 386–392. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
71. Cashman JD, Kennah E, Shuto A, Winternitz C, Springate CM. Màng Fucoidan ức chế an toàn sự kết dính phẫu thuật trên mô hình chuột. J Phẫu thuật Res. 2010 doi: 10.1016 / j.jss.2010.04.043. [ PubMed ] [ CrossRef ] [ Google Scholar ]
72. Hayashi S, Itoh A, Isoda K, Kondoh M, Kawase M, Yagi K. Fucoidan ngăn chặn phần nào quá trình xơ hóa gan do CCl 4 gây ra. Eur. J. Pharmacol. Năm 2008; 580 : 380–384. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
73. Saito A, Yoneda M, Yokohama S, Okada M, Haneda M, Nakamura K. Fucoidan ngăn ngừa tổn thương gan do concanavalin A gây ra thông qua cảm ứng IL-10 nội sinh ở chuột. Gan mật. Res. Năm 2006; 35 : 190–198. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
74. Keppler D, Lesch R, Reutter W, Decker K. Viêm gan thực nghiệm do d-galactosamine gây ra. Bán tại. Mol Pathol. Năm 1968; 9 : 279–290. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
75. Kawano N, Egashira Y, Sanada H. Ảnh hưởng của các loại rong biển ăn được trong khẩu phần ăn đối với sự phát triển của bệnh gan do d-galactosamine ở chuột. J. Nutr. Khoa học. Vitaminol. (Tokyo) 2007; 53 : 315–323. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
76. Kawano N, Egashira Y, Sanada H. Ảnh hưởng của chất xơ trong rong biển ăn được đối với sự phát triển của bệnh gan do d-galactosamine ở chuột. J. Nutr. Khoa học. Vitaminol. (Tokyo) 2007; 53 : 446–450. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
77. Hayakawa K, Nagamine T. Ảnh hưởng của fucoidan lên động học biotinidase trong ung thư biểu mô tế bào gan ở người. Chống ung thư Res. Năm 2009; 29 : 1211–1217. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
[PubMed] 78. Nesterenko AV, Nesterenko VB, Yablokov AV. Chương IV. Bảo vệ bức xạ sau thảm họa Chernobyl. Ann. NY Acad. Khoa học. Năm 2009; 1181 : 287–288. [ PubMed ] [ Google Scholar
79. Levitskaia TG, Creim JA, Curry TL, Luders T, Morris JE, Peterson JM, Thrall KD. Vật liệu sinh học để trang trí (85) Sr ở chuột. Bác sĩ sức khỏe. Năm 2010; 99 : 394–400. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
80. Hollriegl V, Rohmuss M, Oeh U, Roth P. Stronti động học ở người: Ảnh hưởng của alginate đến sự hấp thu stronti ăn vào. Bác sĩ sức khỏe. Năm 2004; 86 : 193–196. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
81. Lee J, Kim J, Moon C, Kim SH, Hyun JW, Park JW, Shin T. Tác dụng bảo vệ phóng xạ của fucoidan ở chuột được chiếu xạ toàn thân. Phytother. Res. Năm 2008; 22 : 1677–1681. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
82. Byon YY, Kim MH, Yoo ES, Hwang KK, Jee Y, Shin T, Joo HG. Tác dụng bảo vệ phóng xạ của Fucoidan đối với tế bào tủy xương: Cải thiện sự tồn tại của tế bào và hoạt động miễn dịch. J. Bác sĩ thú y. Khoa học. Năm 2008; 9 : 359–365. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
83. Rhee KH, Lee KH. Tác dụng bảo vệ của Fucoidan chống lại sự phá hủy tế bào máu do bức xạ gamma gây ra. Vòm. Dược phẩm. Res. 2011; 34 : 645–651. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
84. Sweeney EA, Priestley GV, Nakamoto B, Collins RG, Beaudet AL, Papayannopoulou T. Việc huy động tế bào tiền thân bằng polysaccharid đã sulfat hóa không cần sự hiện diện của selectin. Proc. Natl. Acad. Khoa học. HOA KỲ. Năm 2000; 97 : 6544–6549. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
85. Fermas S, Gonnet F, Sutton A, Charnaux N, Mulloy B, Du Y, Baleux F, Daniel R. Các oligosaccharide được lưu huỳnh hóa (heparin và fucoidan) liên kết và đồng phân hóa yếu tố có nguồn gốc tế bào mô đệm-1 (SDF-1 / CXCL 12) được chứng minh bằng phân tích CE-MS ái lực. Glycobiology. Năm 2008; 18 : 1054–1064. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
86. Mavier P, Martin N, Couchie D, Préaux AM, Laperche Y, Serge Zafrani E. Sự biểu hiện của Yếu tố 1 có nguồn gốc tế bào mô đệm và thụ thể CXCR4 của nó trong quá trình tái tạo gan từ các tế bào hình bầu dục ở chuột. Là. J. Pathol. Năm 2004; 165 : 1969–1976. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
87. Fonseca RJ, Santos GR, Mourao PA. Ảnh hưởng của polysaccharid được làm giàu trong các đơn vị fucose 2,4-disulfated trên quá trình đông máu, huyết khối và chảy máu. Ý nghĩa thực tiễn và khái niệm. Thromb. Haemost. Năm 2009; 102 : 829–836. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
88. Kwak KW, Cho KS, Hahn OJ, Lee KH, Lee BY, Ko JJ, Chung KH. Tác dụng sinh học của Fucoidan phân lập từ Fucus vesiculosus đối với huyết khối và tế bào mạch máu. J. Hematol của Hàn Quốc. Năm 2010; 45 : 51–57. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
89. Pomin VH, Pereira MS, Valente AP, Tollefsen DM, Pavo MSG, Mouro PAS. Sự phân cắt có chọn lọc và hoạt động chống đông máu của một fucan sulfat hóa: Loại bỏ đặc hiệu lập thể este 2 sulfat khỏi polysaccharid bằng cách thủy phân bằng axit nhẹ, chuẩn bị oligosaccharid và hoạt động chống đông máu phụ thuộc vào cofactor II của heparin. Glycobiology. Năm 2005; 15 : 369–381. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
90. Wozniak MA, Itzhaki RF. Tác nhân kháng virus trong bệnh Alzheimer: Hy vọng cho tương lai? Họ. Tiến lên Neurol. Sự bất hòa. Năm 2010; 3 : 141–152. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
91. Jhamandas JH, wie MB, Harris K, Mactavish D, Kar S. Fucoidan ức chế tác dụng gây độc tế bào và độc tố thần kinh của β-amyloid (Aβ) trong tế bào thần kinh não trước cơ bản cholinergic của chuột. Eur. J. Tế bào thần kinh. Năm 2005; 21 : 2649–2659. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
92. Cui YQ, Zhang LJ, Zhang T, Luo DZ, Jia YJ, Guo ZX, Zhang QB, Wang X, Wang XM. Tác dụng ức chế của Fucoidan đối với việc sản xuất oxit nitric trong vi sinh vật chính được kích hoạt bởi lipopolysaccharide. Clin. Hết hạn. Pharmacol. Physiol. Năm 2010; 37 : 422–428. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
93. Li Y, Liu L, Liu D, Woodward S, Barger SW, Mrak RE, Griffin WS. Kích hoạt tế bào vi mô bằng cách hấp thu fDNA thông qua một thụ thể xác thối. J. Neuroimmunol. Năm 2004; 147 : 50–55. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
94. Pei Z, Pang H, Qian L, Yang S, Wang T, Zhang W, Wu X, Dallas S, Wilson B, Reece JM, Miller DS, Hong JS, Block ML. MAC1 làm trung gian cho việc sản xuất superoxide do LPS gây ra bởi microglia: Vai trò của các thụ thể nhận dạng mẫu trong nhiễm độc thần kinh dopaminergic. Glia. Năm 2007; 55 : 1362–1373. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
95. Huang WC, Yen FC, Shiao YJ, Shie FS, Chan JL, Yang CN, Sung YJ, Huang FL, Tsay HJ. Sự mở rộng của Abeta tập hợp thông qua phân nhóm vi nấm phụ thuộc vào chemokine. Tế bào thần kinh. Res. Năm 2009; 63 : 280–287. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
96. Do H, Pyo S, Sohn EH. Sự ức chế biểu hiện iNOS của fucoidan được thực hiện qua trung gian điều chỉnh p38 MAPK, JAK / STAT, AP-1 và IRF-1, và phụ thuộc vào việc điều chỉnh tăng biểu hiện của thụ thể xác thối B1 trong u thần kinh đệm C6 do TNF-alpha- và IFN-gamma kích thích. tế bào. J. Nutr. Hóa sinh. Năm 2009; 21 : 671–679. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
97. Luo D, Zhang Q, Wang H, Cui Y, Sun Z, Yang J, Zheng Y, Jia J, Yu F, Wang X. Fucoidan bảo vệ chống lại cái chết của tế bào thần kinh dopaminergic in vivo và in vitro . Eur. J. Pharmacol. Năm 2009; 617 : 33–40. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
98. Zhang Y, Song S, Song D, Liang H, Wang W, Ji A. Tác dụng tăng sinh trên tế bào gốc / tiền thân thần kinh của một polysaccharide sulfat được tinh chế từ hải sâm Stichopus japonicus . J. Biosci. Bioeng. Năm 2010; 109 : 67–72. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
99. Lee HR, Do H, Lee SR, Sohn ES, Pyo S, Son E. Ảnh hưởng của Fucoidan đối với sự tăng sinh tế bào thần kinh: Liên kết với việc sản xuất NO thông qua con đường iNOS. J. Khoa học thực phẩm. Nutr. Năm 2007; 12 : 74–78. [ Google Scholar ]
100. DJ Schaeffer, Krylov VS. Hoạt động chống HIV của các chất chiết xuất và hợp chất từ tảo và vi khuẩn lam. Ecotoxicol. Môi trường. Két sắt. Năm 2000; 45 : 208–227. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
101. Hayashi K, Nakano T, Hashimoto M, Kanekiyo K, Hayashi T. Tác dụng bảo vệ của fucoidan từ tảo nâu Undaria pinnatifida chống lại sự lây nhiễm vi rút herpes simplex. Int. Immunopharmacol. Năm 2008; 8 : 109–116. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
102. Thompson KD, Dragar C. Hoạt động kháng virus của Undaria pinnatifida chống lại virus herpes simplex. Phytother. Res. Năm 2004; 18 : 551–555. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
103. Makarenkova ID, Deriabin PG, L’Vov DK, Zviagintseva TN, Besednova NN. Hoạt tính kháng vi rút của polysaccharide được sulfat hóa từ tảo nâu Laminaria japonica chống lại sự lây nhiễm vi rút Cúm gia cầm A (H5N1) trong các tế bào được nuôi cấy. Vopr. Virusol. Năm 2010; 55 : 41–45. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
104. Taoda N, Shinji E, Nishii K, Nishioka S, Yonezawa Y, Uematsu J, Hattori E, Yamamoto H, Kawano M, Tsurudome M, O’Brien M, Yamashita T, Komada H. Fucoidan ức chế nhiễm vi rút parainfluenza loại 2 Biomed . Res. 2008; 29 : 331–334. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
105. Cooper R, Dragar C, Elliot K, Fitton JH, Godwin J, Thompson K. GFS, một chế phẩm của Tasmanian Undaria pinnatifida có liên quan đến việc chữa lành và ức chế sự tái hoạt của mụn rộp. BMC bổ sung. Altern. Med. Năm 2002; 2 : 11–17. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
106. Hemmingson J, Falshaw R, Furneaux R, Thompson K. Cấu trúc và hoạt tính kháng virus của các sulfat galactofucan chiết xuất từ cây Undaria Pinnatifida (Phaeophyta) J. Appl. Phycol. Năm 2006; 18 : 185–193. [ Google Scholar ]
107. Hidari KI, Takahashi N, Arihara M, Nagaoka M, Morita K, Suzuki T. Cấu trúc và hoạt tính chống vi rút sốt xuất huyết của polysaccharide sulfat từ một loài tảo biển. Hóa sinh. Lý sinh. Res. Commun. Năm 2008; 376 : 91–95. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
108. Haneji K, Matsuda T, Tomita M, Kawakami H, Ohshiro K, Uchihara JN, Masuda M, Takasu N, Tanaka Y, Ohta T, Mori N. Fucoidan được chiết xuất từ Cladosiphon okamuranus Tokida gây ra quá trình apoptosis của virus bệnh bạch cầu tế bào T ở người dòng tế bào T bị nhiễm loại 1 và tế bào ung thư bạch cầu nguyên phát tế bào T trưởng thành. Nutr. Sự xấu xa. Năm 2005; 52 : 189–201. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
109. Romanos MTV, Andrada-Serpa MJ, Matos dos Santos MG, Ribeiro ACF, Yoneshigue-Valentin Y, Costa SS, Wigg MD. Tác dụng ức chế của chất chiết xuất từ tảo biển Brazil đối với sự hình thành hợp bào vi rút tế bào T ở người loại 1 (HTLV-1) gây ra hợp bào trong ống nghiệm . Đầu tư cho Ung thư. Năm 2002; 20 : 46–54. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
110. Tổ chức WH Leishmaniasis. 2011. [truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2011]. Có sẵn trực tuyến: http://www.who.int/leishmaniasis/en/
111. Kar S, Sharma G, Das PK. Fucoidan chữa khỏi nhiễm trùng với cả các chủng Leishmania donovani nhạy cảm với kháng antimon và kháng kháng sinh thông qua phản ứng Th1 và các chất oxy hóa có nguồn gốc từ đại thực bào. J. Kháng khuẩn. Mẹ đẻ. 2011; 66 : 618–625. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
112. Chen JH, Lim JD, Sohn EH, Choi YS, Han ET. Tác dụng ức chế tăng trưởng của fucoidan từ rong biển nâu Undaria pinnatifida đối với ký sinh trùng Plasmodium . Parasitol. Res. Năm 2009; 104 : 245–250. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
113. Manuelidis L, Chakrabarty T, Miyazawa K, Nduom NA, Emmerling K. Tác nhân lây nhiễm kuru là một chủng địa lý duy nhất khác biệt với bệnh Creutzfeldt-Jakob và các tác nhân gây bệnh Scrapie. Proc. Natl. Acad. Khoa học. HOA KỲ. Năm 2009; 106 : 13529–13534. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
114. Liberski PP, Brown P. Kuru: Các phân nhánh của nó sau năm mươi năm. Hết hạn. Gerontol. Năm 2009; 44 : 63–69. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
115. Doh-Ura K, Kuge T, Uomoto M, Nishizawa K, Kawasaki Y, Iha M. Tác dụng dự phòng của Fucoidan rong biển ăn kiêng chống lại nhiễm trùng prion đường ruột. Chất kháng khuẩn. Đặc vụ Che mẹ. Năm 2007; 51 : 2274–2277. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
116. Juffrie M, Rosalina I, Rosalina A, Damayanti W, Djumhana A, Ahmad H. Hiệu quả của Fucoidan đối với bệnh viêm loét dạ dày. Nhân loại. J. Biotechnol. Năm 2006; 11 : 908–913. [ Google Scholar ]
117. Lutay N, Nilsson I, Wadstrom T, Ljungh A. Ảnh hưởng của heparin, fucoidan và các polysaccharid khác đối với sự bám dính của các loài Helicobacter ruột vào đại thực bào của chuột. Appl. Hóa sinh. Công nghệ sinh học. Năm 2010; 164 : 1–9. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
118. Choi JI, Raghavendran HR, Sung NY, Kim JH, Chun BS, Ahn DH, Choi HS, Kang KW, Lee JW. Tác dụng của Fucoidan đối với chứng loét dạ dày do aspirin gây ra ở chuột. Chèm. Biol. Tương tác. Năm 2010; 183 : 249–254. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
[Bài báo miễn phí PMC] [PubMed] 119. Bojakowski K, Abramczyk P, Bojakowska M, Zwolinska A, Przybylski J, Gaciong Z. Fucoidan cải thiện lưu lượng máu qua thận trong giai đoạn đầu của thiếu máu cục bộ thận / chấn thương tái tưới máu ở chuột. J. Physiol. Pharmacol. Năm 2001; 52 : 137–143. [ PubMed ] [ Google Scholar
120. Zhang Q, Li N, Zhao T, Qi H, Xu Z, Li Z. Fucoidan ức chế sự phát triển của protein niệu trong viêm thận Heymann hoạt động. Phytother. Res. Năm 2005; 19 : 50–53. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
121. Zhang Q, Li Z, Xu Z, Niu X, Zhang H. Ảnh hưởng của Fucoidan đối với bệnh suy thận mãn tính ở chuột. Planta Med. Năm 2003; 69 : 537–541. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
122. Veena CK, Josephine A, Preetha SP, Varalakshmi P. Vai trò có lợi của polysaccharid sulfated từ rong biển ăn được Fucus vesiculosus trong thực nghiệm tăng oxy niệu. Thực phẩm Chem. Năm 2007; 100 : 1552–1559. [ Google Scholar ]
[Bài viết miễn phí của PMC] [PubMed] 123. Josephine A, Amudha G, Veena CK, Preetha SP, Rajeswari A, Varalakshmi P. Tác dụng có lợi của polysaccharides sulfated từ Sargassum wightii chống lại sự thay đổi ty thể do Cyclosporine A gây ra trong thận chuột. Mol Nutr. Thực phẩm Res. Năm 2007; 51 : 1413–1422. [ PubMed ] [ Google Scholar
124. Rucavado A, Escalante T, Shannon J, Gutierrez JM, Fox JW. Proteomics của dịch tiết vết thương trong bệnh lý do nọc rắn gây ra: Tìm kiếm các dấu ấn sinh học để đánh giá tổn thương mô và thành công trong điều trị. J. Proteome Res. 2011; 10 : 1987–2005. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
125. Mora J, Mora R, Lomonte B, Gutierrez JM. Ảnh hưởng của nọc rắn hổ mang trên các mạch bạch huyết: Hiểu rõ về khía cạnh tiềm ẩn của nọc độc. PLoS Negl. Chốt. Dis. Năm 2008; 2 : e318. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
126. Gutiérrez JM, Theakston RDG, Warrell DA. Đối mặt với vấn đề bị rắn cắn bị bỏ quên: Sự cần thiết của một mối quan hệ đối tác toàn cầu. PLoS Med. Năm 2006; 3 : e150. [ Bài viết miễn phí của PMC ] [ PubMed ] [ Google Scholar ]
127. Angulo Y, Lomonte B. Tác dụng ức chế của fucoidan đối với hoạt động của các phospholipases độc tố của nọc rắn crotaline A (2) Biochem. Pharmacol. Năm 2003; 66 : 1993–2000. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
128. Vasanthi HR, Jaswanth A, Krishnaraj V, Rajamanickam GV, Saraswathy A. Tác dụng giải độc nọc rắn trong ống nghiệm của một số loài tảo biển ở Vịnh Mannar, bờ biển đông nam Ấn Độ. Phytother. Res. Năm 2003; 17 : 1217–1219. [ PubMed ] [ Google Scholar ]
Cường –
Tôi sẽ mua tiếp hộp thứ 2, dùng rất tốt
Duyên –
Hàng chuẩn, chất lượng tốt
Nga –
Cho tôi đặt thêm 2 hộp nhé